Có câu “Mãn chiêu tổn”, ý là cao ngạo sẽ tự mang đến tổn thất cho bản thân. Tổn thất này có thể không chỉ đơn giản là sự mất mát về vật chất, cũng có thể là sức hút nhân cách của mỗi người. Xưa nay con người không hề hứng thú hoặc nguyện ý chung sống với người cao ngạo tự đại. Bởi lẽ cao ngạo là do lòng tự tôn không được ủng hộ.
Trịnh Bản Kiều từng có đôi câu đối rằng: “Lòng không, lá trúc đầu cúi thấp; Cốt cách, mai không chính diện hoa.” Người quân tử yêu trúc là vì trúc thanh tú, tiêu diêu, có phong thái khiêm nhường của người quân tử. Người quân tử yêu mai vì hoa mai không sợ tuyết lạnh, vẫn luôn âm thầm tỏa hương. Bởi lẽ làm người cũng như cây mai, cây trúc, ai nấy đều tự nhiên kính cẩn mà muốn gần gũi, nên càng không thể khiến người khác ghét bỏ. Ngược lại, kiêu ngạo chỉ là sự ngu muội dễ thấy, sẽ chẳng ai muốn cống hiến cho tình bạn này.
Sau đây là những câu trí huệ của cổ nhân về đức Khiêm nhường.
1. Khiêm giả chúng thiện chi cơ, ngạo giả chúng ác chi khôi (Vương Dương Minh)
Dịch nghĩa: Khiêm nhường là nền tảng của mọi việc thiện, kiêu ngạo là căn nguyên của muôn điều ác.
2. Bất ngạo tài dĩ kiêu nhân, bất dĩ sủng nhi tác uy (Gia Cát Lượng)
Dịch nghĩa: Không nên ỷ bản thân có năng lực cao siêu mà kiêu ngạo, tự đại. Không thể vì bản thân được sủng ái mà tự tung tự tác.
3. Bất ngạo phương sư nhân chi trường, nhi tự thành kỳ học (Đàm Tự Đồng)
Dịch nghĩa: Một người chỉ khi không kiêu ngạo mới có thể học được những sở trường của người khác. Sau đó họ mới tự thành tựu sự nghiệp học hành của chính mình.
4. Thiên hạ cổ kim chi Đường nhân, giai dĩ nhất tình nọa tự chí bại, thiên hạ cổ kim chi nhân tài, giai dĩ nhất ngạo tự chí bại (Tăng Quốc Phiên)
Dịch nghĩa: Từ cổ chí kim những người bình thường trong thiên hạ đều do lười nhác mà chuốc lấy thất bại, từ cổ chí kim những người có tài trong thiên hạ đều do kiêu ngạo mà chuốc lấy bại vong.
Chữ “Khiêm” (Khiêm nhường) khắc ghi trong tâm, đối nhân xử thế đường chẳng lệch
Những bậc đại trí giả thường khiêm nhu, những người đại thiện ắt khoan dung. Khiêm nhường sẽ khiến người khác và bản thân cùng chung sống bình yên, dễ chịu. Người khiêm cung (khiêm nhường cung kính) sẽ khiến người khác hứng khởi, nguyện ý muốn xích lại gần bạn, cũng khiến người khác nể phục, kính mến. Nếu con người có thể đạt được bốn chữ “Khiêm” ấy thì sao phải khom lưng cúi đầu trước tiền bạc? Có được bốn cảnh giới này mới có thể sống bình an trong tâm, xử thế mới được thông thuận.
5. Tự khiêm tác nhân dũ phục, tự khoa tắc nhân tất nghi (Thân Hàm Quang)
Dịch nghĩa: Giữa những người mạnh còn có người mạnh hơn, đừng huênh hoang khoác lác trước mặt người khác. Hai câu trên nói với chúng ta rằng, dẫu bạn có được bản lĩnh cao siêu, đạt được thành tựu đáng nể cũng đừng tự mãn mà huênh hoang khắp nơi: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị, đừng khoe khoang trước mặt người khác”.
6. Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục (Dị Khiêm)
Dịch nghĩa: Dẫu ở địa vị thấp hèn cũng có thể dùng thái độ khiêm nhường để ước chế bản thân, chứ không thể vì địa vị thấp mà buông lơi việc tu dưỡng đạo đức.
7. Khiêm cố mỹ danh, quá khiếm giả, nghi phòng kỳ trá (Chu Hi)
Dịch nghĩa: Khiêm nhường đương nhiên là danh tiếng tốt đẹp. Nhưng những người quá khiêm nhường lại phải phòng ngừa họ. Bởi lẽ khi giả khiêm nhường kỳ thực họ lại rất kiêu ngạo.
8. Thịnh mãn dịch vi tai, khiêm xung hằng thọ phúc (Trương Diên Ngọc)
Dịch nghĩa: Khí vượng át người, người kiêu ngạo tự mãn dễ sinh họa hại, người khiêm nhường lại thường được hưởng phúc dài lâu.
9. Niệm cao nguy, tắc tư khiêm xung nhi tự mục; cụ mãn doanh, tắc tư giang hải hạ bách xuyên (Ngụy Trưng)
Dịch nghĩa: Nghĩ tới địa vị của mình cao thì phải khiêm nhường, cẩn thận ước thúc bản thân. Sợ mình kiêu ngạo tự mãn thì hãy nhớ tới biển ở dưới trăm sông (Khiêm nhường tiếp nhận dòng nước chảy từ trăm sông) mà khiêm tốn lắng nghe, tiếp thu ý kiến về mọi phương diện.
10. Đạo trời kỵ đầy, người và việc kỵ toàn vẹn (Khuyết danh)
Sự vật trong thế giới tự nhiên kỵ đầy tràn, những việc của con người nơi thế gian kỵ quá toàn vẹn. Nghĩa là đừng theo đuổi sự toàn vẹn của sự việc một cách quá mức. Việc truy cầu quá mức thông thường sẽ đi sang phía phản diện. Mọi việc biết đủ mới dễ hạnh phúc.
11. Nhân duy hư, thủy năng tri nhân. Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích. Mãn tất ích, ngạo tất bại (Thượng Thư)
Dịch nghĩa: Con người phải khiêm nhường mới có thể thấu hiểu người khác. Tự mãn chỉ chuốc lấy tổn thất, khiêm nhường mới được thọ ích dài lâu. Nước đầy thì sẽ tràn, kiêu ngạo ắt bại vong.
12. Bất tự thị giả bác văn, bất tự mãn giả thụ ích (Lâm Bô – Tỉnh tâm lục)
Dịch nghĩa: Những người không tự cho mình là đúng, sẽ khiến kiến thức của mình càng thêm sâu rộng. Những người không tự thỏa mãn với thành tích của bản thân thường được thọ ích nhiều hơn.
13. Phóng đãng công bất toại, mãn doanh thân tất tai (Trương Vịnh)
Dịch nghĩa: Phàm những người thông minh và mưu mô thích tâng công kể thưởng, vơ thành tích về bản thân mình đa phần đều có kết cục bất hạnh.
14. Cư cao thường lự khuyết, trì mãn mỗi ưu doanh (Giản Văn Đế)
Dịch nghĩa: Phải xử lý và nắm vững mức độ của sự khiêm nhường, phải học hỏi những điều mình không hiểu hay hiểu chưa thấu đáo.
15. Mãn doanh giả, bất tổn hà vi? Thận chi! Thận chi! (Chu Thuấn Thủy)
Dịch nghĩa: Con người phải khiêm nhường một chút, khi đắc ý hãy nhớ hạ mình, để tránh bị tổn thất.
Trái đất nằm trong vũ trụ bao la chỉ nhỏ bé như một hạt bụi lơ lửng giữa từng không. Vậy nên con người đứng giữa đất trời mà mình nghĩ là bát ngát ấy chiếm được bao nhiêu phần của hạt bụi? Vậy nên cổ nhân xưa nay vẫn luôn khuyên răn con người không nên kiêu ngạo mà tự mang họa vào thân. Khiêm nhường học hỏi và hoàn thiện bản thân mới là việc làm chân chính.
16. Nột nột quả ngôn giả vị tất ngu, điệp điệp lợi khẩu giả vị tất trí.
Dịch nghĩa: Người có vẻ ngây ngô ít lời chưa chắc đã ngu đần, người nói không ngớt, lưỡi như lò xo chưa chắc đã thông minh.
17. Ngôn quá kỳ thực, chung vô đại dụng.
Dịch nghĩa: Nói phóng đại sự thực, cuối cùng lại chẳng có tác dụng gì.
18. Tri thức dũ thiển, tự tin dũ thâm.
Dịch nghĩa: Người có hiểu biết càng nông cạn thì càng thích khoe khoang, thể hiện bản thân.
19. Tri tri vi tri chi, bất tri chi vi bất tri, thị tri giã. (Vi Chính – Luận Ngữ)
Dịch nghĩa: Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó mới gọi là trí huệ chân chính.
20. Tương cự gián tắc anh hùng tán, sách bất đồng tắc mưu sỹ phản. (Hoàng Thạch Công)
Dịch nghĩa: Phải biết lắng nghe ý kiến của những người xung quanh. Nếu không tiếp nhận ý kiến của người khác thì họ sẽ bỏ bạn mà đi.
21. Nhược yếu tinh, nhân tiền thính.
Dịch nghĩa: Phải nghe nhiều những lời người khác nói, tiếp nhận những ý kiến và kinh nghiệm hữu ích nhiều hơn mới có thể làm phong phú trí huệ của mình, khiến bản thân trở nên anh minh, sáng suốt.
Đại trí nhược ngu: Người thông minh thực sự đều giả ngốc
Khi còn trẻ Khổng Tử từng thỉnh giáo Lão Tử về đạo làm người.
Lão Tử nói với Khổng Tử rằng: “Lương cổ thâm tàng nhược hư, quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu.”
Nghĩa là: Một thương nhân đầu óc nhanh nhạy vô cùng hiểu cách cất giữ của cải, nên bề ngoài có vẻ như trống trơn, chẳng có gì. Người quân tử đạo đức cao thượng rất hiểu cách ẩn giấu đạo đức, bên ngoài trông như một người ngu ngốc, chậm chạp.
Nếu bạn bỏ đi sự cao ngạo và lòng tham thì có thể trở thành bậc Thánh nhân. Đây gọi là “Đại trí nhược ngu” (Người hiểu biết rộng như kẻ ngốc).
“Hồ đồ hiếm có” xưa nay đều được dùng để tôn sùng đạo xử thế cao minh. Rất nhiều người theo đuổi trí huệ và cảnh giới “hồ đồ” như Lão tử nói là “Đại trí nhược ngu”. Làm người rất kỵ khoe tài tự mãn, không biết nhường nhịn. Ánh quang chói lóa quá lộ liễu dễ sinh đố kỵ oán hận, càng dễ tìm kẻ thù cho bản thân.
22. Nhân sinh chí ngu thị ác văn kỷ quá, nhân sinh chí ác thị thiện đàm nhân quá.
(Thân Cư Vân)
Dịch nghĩa: Chuyện ngu ngốc nhất của đời người chính là ghét người khác chỉ ra khuyết điểm của mình. Đời người không có đạo đức nhất chính là thích đàm luận về nhược điểm của người khác.
23. Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu.
Công bí thiên hạ, thủ chi dĩ nhượng.
Dũng sỹ chấn thế, thủ chi dĩ khiếp,
Phú hữu tứ hải, thủ chi dĩ khiêm,
Thử sở vị ấp chi hựu tổn chi đạo dã.
(Hựu Tọa – Tuân Tử)
Dịch nghĩa: Thông minh cơ trí có thể an thân bởi chữ ngu. Công trùm thiên hạ có thể tự bảo vệ mình bằng cách khiêm nhường. Dũng sỹ đủ để chấn nhiếp thế giới lại có thể giữ mình bằng sự khiếp nhược. Có tiền tài bốn bể nhưng có thể khiêm tốn tự giữ mình. Đây chính là cách khiêm nhường lại càng thêm khiêm nhường!
24. Đại dũng nhược khiếp, đại trí nhược ngu. (Tô Thức)
Dịch nghĩa: Người dũng cảm nhất trông lại có vẻ nhát gan. Người thông tuệ nhất trông lại có vẻ xuẩn ngốc.
25. Cơ quan toán tận thái thông minh, phản toán liễu khanh khanh tính mệnh. (Hồng Lâu Mộng)
Dịch nghĩa: Cơ mưu tính toán quá thông minh, tính đi tính lại hại mạng chồng.
Giỏi nói về khiếm khuyết của người khác để che giấu khiếm khuyết của bản thân, khen sở trường của mình mà kỵ không nói về sở trường của người khác đâu phải việc làm của bậc quân tử
Vạch trần sở đoản của người khác để khoe khoang sở trường của bản thân, bản chất đều là chứng minh ưu thế của bản thân mà ác ý hạ thấp người khác. Hành vi này thể hiện một tấm lòng hạn hẹp, trong giao tiếp rất dễ bị người khác thù ghét.
Người thực sự thông minh thường tìm căn nguyên của vấn đề ở bản thân, như câu Khổng Tử nói: “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân” (Một ngày ta 3 lần suy xét bản thân mình). Phát hiện ra những thiếu sót của bản thân từ đó sửa đổi, chứ không hạ thấp người khác để tìm sự an ủi cho mình.
26. Vật hữu sở bất túc, trí hữu sở bất minh, số hữu sở bất đãi, Thần hữu sở bất thông. (Sử ký)
Dịch nghĩa: Thước dẫu dài hơn tấc nhưng so với vật dài hơn thì lại trở nên ngắn. Tấc dẫu ngắn hơn thước nhưng so với vật ngắn hơn vẫn dài hơn. Sự vật vẫn luôn có chỗ thiếu sót của mình, bậc trí giả cũng thường có những chỗ không sáng suốt.
27. Sơn bất yếm cao, thủy bất yếm sâu. (Đoản Ca Hành – Tào Tháo)
Dịch nghĩa: Núi không chê cao, nước không chê sâu.
28. Đoản bất khả hộ, hộ đoản chung đoản. Trường bất khả quan, quan tắc bất trường. (Niếp Đại Niên)
Dịch nghĩa: Đừng bảo vệ sở đoản và khuyết điểm của mình, như vậy sẽ trở thành khuyết điểm vĩnh viễn, không thể bù đắp. Đừng kiêu ngạo về sở trường hay ưu điểm của mình, như vậy sẽ rất nhanh chóng mất đi ưu thế của bản thân mà chẳng thể tiến bộ.
29. Hiếu thuyết kỷ trường tiện thị đoản, tự tri kỷ đoản tiện trường. (Thân Cư Vân)
Dịch nghĩa: Thường kể về sở trường của mình ở đâu thì chính là sở đoản của mình ở đó. Nếu biết sở đoản của mình ở đâu thì chính là sở trường của mình ở đó.
30. Khôi Hoằng chí sỹ chi khí, bất nghi vọng tự phỉ bạc. (Gia Cát Lượng)
Dịch nghĩa: Dẫu muốn hoằng dương khí khái của binh sỹ, cũng không nên tùy tiện coi nhẹ bản thân.
Những lời dạy của cổ nhân trong cách ứng xử giữa người với người, trong cách làm người đến muôn đời sau vẫn còn nguyên giá trị. Người xưa coi trọng Đức, không vì ham tiếc công danh lợi lộc mà khoe mẽ bản thân, hạ thấp người khác. Ngược lại người quân tử luôn khiêm nhường, không ngừng học hỏi hoàn thiện bản thân và biết cách tôn vinh người khác.
Nguồn: DKN
Xem thêm
Vạn Điều Hay