Bà là một trong ba vị Hoàng hậu nổi tiếng nhất trong lịch sử triều Thanh, bà không có thành tích chính trị lừng lẫy như Hiếu Trang, cũng không có địa vị cao và quyền lực như Từ Hi thế nhưng mới 37 tuổi, bà được biết đến là “Hoàng hậu hiền đức nhất Đại Thanh”.
Được Ung Chính chọn làm phúc tấn của Hoằng Lịch
Bà chính là Phú Sát Thị, xuất thân từ danh tộc Phú Sát Thị ở Sa Tế, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, bà kém Càn Long một tuổi. Ông nội, cha và chú của bà đều là những quan chức quan trọng được các Hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long tín nhiệm trọng dụng. Bà xuất thân cao quý, tính nết dịu dàng, đoan trang.
Khi Phú Sát Thị lên chín tuổi, một hôm Ung Chính đột nhiên đến thăm và nhìn thấy cuốn kinh được chép trên bàn có khuôn hình của Âu Dương Tuân, có sự khoáng đạt của Liễu Công Quyền, bèn hỏi ai đã viết chúng. Cha của Phú Sát Thị trả lời: “Là ngu nữ tập viết chữ”.
Ung Chính yêu cầu tiểu cách cách tập viết chữ trước mặt mình. Tiểu cách cách suy nghĩ một chút rồi đề bút viết bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú “Cổ Bắc Khẩu” của Hoàng đế Khang Hy: “Đoạn sơn du Cổ Bắc, Thạch bích khai tuấn viễn, Hình thắng cố nan bằng, Tại đức bất tại hiểm”.
Ung Chính hỏi bà, lẽ nào có thể hiểu được ý thơ của Thánh Tổ? Cách cách nói: “Sư phụ đã nói câu ‘ở hiền không gặp nguy’ xuất phát từ” Sử ký – Tiểu sử của Tôn Tử Ngô liệt truyện” Chỉ có hiểu rõ tu nhân tài đức mới có thể thống trị thiên hạ”. Sự thông minh của Phú Sát Thị đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Ung Chính.
Vì vậy, khi Phú Sát Thị đến tuổi 16 tham gia bát kỳ tuyển tú, bà đã được Hoàng đế Ung Chính chọn trúng, chỉ định làm phúc tấn của hoàng tử Hoằng Lịch. Vào thời điểm đó, Hoằng Lịch sớm được bí mật lập làm thái tử thừa kế ngai vàng, Ung Chính đang chọn một Hoàng hậu tương lai cho Hoằng Lịch. Với cái nhìn sâu sắc tinh tường của mình, ông đã chọn cho vương triều đại Thanh một vị Hoàng hậu tài đức bậc nhất.
Hậu cung có 3000 mỹ nữ, Càn Long yêu nhất chỉ mình nàng
Sau khi Càn Long lên ngôi, Càn Long đã lập Phú Sát Thị làm chính cung hoàng hậu.
Trong bài thơ của mình, ông ca ngợi “dung mạo xinh đẹp” của vợ, không chỉ nói đến vẻ đẹp bên ngoài mà còn nói đến khí chất phi phàm từ bên trong.
Hoàng hậu Phú Sát Thị là người bạn tâm giao của Càn Long. Bà cùng Càn Long ngâm thơ, vẽ tranh, chèo thuyền và chơi đàn. Bà luôn kiên nhẫn lắng nghe tiếng lòng của Hoàng đế, bà hiểu Hoàng đế đang nghĩ gì và cố gắng hết sức giúp ông đạt được điều mình muốn, cùng ông chia sẻ vui buồn lo lắng, đôi lúc còn thay ông giải quyết những khó khăn.
Càn Long thường nghĩ về những cơn mưa đến các địa phương khác nhau. Gặp hạn hán, Phú Sát Thị lại cùng chồng lo lắng và cầu Thượng Thiên ban phúc. Mỗi khi gặp hạn, trời đổ mưa tuyết, hai vợ chồng hân hoan chia sẻ niềm vui cùng nhau.
Trong cuộc sống, Hoàng hậu cũng rất mực thương yêu Càn Long. Một lần, Hoàng đế Càn Long bị bệnh lở loét, cơ thể trở nên yếu ớt, thái y đã yêu cầu ông phải nghỉ ngơi trong 100 ngày. Hoàng hậu đích thân chăm sóc cho đến khi Hoàng đế hoàn toàn bình phục.
Hoàng đế Càn Long có rất nhiều phi tần, nhưng trong ba nghìn mỹ nữ, người mà ông yêu nhất chính là Hoàng hậu. Ông nói với Hoàng hậu: “Một ngày không thấy nàng dài như ba tháng”. Điều này có thể thấy, Càn Long đối với bà tình sâu nghĩa nặng không muốn rời xa.
Tự tay may hầu bao
Tuy là Hoàng hậu nhưng bà không bao giờ kiêu căng, ngạo mạn, bà là người không chỉ hiền hòa mà còn rất khiêm cung, tuân thủ nghiêm ngặt các nghi lễ truyền thống trong cung.
Một lần, Càn Long nói chuyện với bà về những phong tục xưa khi tiên đế còn gây dựng sự nghiệp ở quan ngoại rằng: “Quần áo đều dùng sợi tơ nhung hươu xe thành sợi để trang điểm ống tay áo, không giống như hoàng cung hiện nay dùng kim tuyến ngân tuyến thêu làm đồ trang sức”.
Sau đó, Hoàng hậu tận tâm cố ý xoắn những lông hươu thành những sợi chỉ, khâu một chiếc hầu bao kiểu người Mãn tặng cho Càn Long. Càn Long vô cùng cảm động và kể từ đó, ông luôn mang chiếc hầu bao bên mình. Ngắm nhìn nó gợi nhớ đến những vất vả của Tiên đế khởi nghiệp, nhắc nhở ông không quên cội nguồn tổ tiên, đồng thời nó cũng hàm ý về tình yêu thương, sự trân trọng giữa vợ và chồng.
Hoàng đế có được vợ hiền trợ giúp
Càn Long đề cao đạo hiếu, trong lúc Càn Long chịu tang, hoàng hậu thấu tình đạt lý đã làm tròn bổn phận của một người con.
Đối với thân mẫu Càn Long – Hoàng thái hậu Nữu Hỗ Lộc Thị, bà đối xử như mẹ ruột của mình. Thái hậu xuất thân khiêm tốn và có tính cách rất khác với bà, nhưng Hoàng hậu đối xử với mẹ chồng rất khiêm tốn và tôn trọng, không hề kiêu ngạo.
Công việc nội cung đều do Hoàng hậu chủ trì, Càn Long khen ngợi bà là người “Nặng nhẹ vừa vặn”, “đoan trang, đàng hoàng” khiến sáu cung trên dưới đều cảm kích vâng lời. Bà không bày mưu tính kế, chỉ lấy đức phục người, đối với thuộc hạ bình thản có lễ tiết, yêu thương, công bằng.
Bà đối xử với tất cả mọi người đều ôn nhu hòa nhã, nhờ có bà mà hậu cung yên bình, điều này đã giúp Càn Long cai quản thiên hạ mà không bị phân tâm. Càn Long tin rằng, ông kế nghiệp Tiên đế lâu dài được như vậy là nhờ có một phần công lao của Hoàng hậu, bèn xưng hiệu cho bà là: “Cổ kim hiền hậu”.
Nỗi đau mất con
Tuy nhiên, với vai trò người mẹ, Phú Sát Thị lại quá bất hạnh.
Một năm sau khi cưới, bà sinh hạ được người con đầu là Hoàng Trưởng Nữ, không lâu sau cô con gái nhỏ qua đời.
Con trai cả, Vĩnh Liễn, được bí mật chỉ định làm thái tử khi mới 7 tuổi. Càn Long khen Vĩnh Liễn “thông minh, cao quý và phi thường.” Không ngờ, chỉ hai năm sau, cậu bé Vĩnh Liễn qua đời vì bệnh phong hàn.
Mấy năm sau, Hoàng hậu sinh hạ con trai út. Càn Long khen: “Thông minh khác thường”, đặt tên Vĩnh Tông, ngầm ý sẽ là người thừa kế ngôi vị tương lai. Nhưng thật đáng tiếc, tiểu hoàng tử chưa đầy 2 tuần tuổi vì mắc bệnh đậu mùa mà qua đời.
Trong tám năm, bà đã mất đi hai hoàng tử và một cách cách, 4 lần sinh thì có tới 3 đứa con đều bị chết trẻ. Sức khỏe của bà chưa kịp hồi phục thì lại liên tiếp nhận lấy đả kích nên đã khiến thân tâm dần sinh bệnh.
“Người nào có phải là cá, đâu biết cá vui?”
Ba tháng sau cái chết của con trai út, Càn Long và Thái hậu muốn đến thăm Sơn Đông. Phú Sát bệnh nặng mới khỏi nhưng lại không để ý đến an nguy của bản thân, khăng khăng xin đi theo phụng dưỡng. Bà nói rằng bà đã mơ thấy hái Sơn nữ Thần Bích Hà Nguyên Quân. Bà cũng mong sau khi khỏi bệnh sẽ đi Thái Sơn lễ tạ Thần linh. Vì vậy, Vua Càn Long đã chấp thuận lời thỉnh cầu của Hoàng hậu.
Trên đường đi, mọi người thăm miếu Khổng Tử, thăm rừng Khổng Tử, đến tham quan suối Bác Đột và cuối cùng là hồi kinh. Khi xem cá trên thuyền rồng, Hoàng hậu nhắc đến một điển tích của Trang Tử : “Người nào có phải là cá, đâu biết cá vui”? Khi đó, bà vẫn duy trì vẻ ngoài đoan trang, hết lòng vì người khác mà đảm nhiệm trọn vẹn mọi việc, nhưng bên trong thân thể sức lực đã suy kiệt.
Trên đường trở về Bắc Kinh, do bị kiệt sức, Hoàng hậu bị cảm, và cuối cùng qua đời tại Chu Chương, Đức Châu, ở tuổi ba mươi bảy.
Tưởng nhớ vô tận
Người dân khắp nơi đều tiếc thương cho Hoàng hậu, Càn Long vô cùng đau đớn. Từ đó Càn Long không cho phép các phi tần khác sống trong cung Trường Xuân, nơi Hoàng hậu đã sống trước khi bà qua đời. Những vật dụng mà Hoàng hậu đã dùng qua như: mũ đính ngọc trai, trân châu, dụng cụ quần áo, đều được đặt y nguyên như khi Hoàng hậu còn sống và cất giữ suốt 40 năm. Hằng năm, Càn Long đều đến nhìn những kỷ vật này để tưởng nhớ Hoàng hậu.
Thụy hiệu “Hiếu Hiền” của hoàng hậu do Hoàng đế Càn Long trực tiếp soạn thảo và ban tặng, điều này chưa có tiền lệ trong triều đại nhà Thanh. Bởi vì ông nhớ đến tâm nguyện cuối cùng của Hoàng hậu: “Ngay khi Hoàng phi qua đời, Càn Long đã ban tặng tước vị Tuệ Hiền. Hoàng hậu Phú Sát bên cạnh nói: “Ngày đó có thể ban thưởng cho thiếp chữ “Hiếu Hiền” được không?”.
Cái tên “Hiếu Hiền” đã khắc họa được tính cách con người của hoàng hậu.
Sau đó một đoạn thời gian rất dài, Càn Long không lập hoàng hậu. Càn Long nói rằng tình cảm của ông và Hiếu Hiền rất sâu nặng, bất kỳ ai cũng không thay thế được vị trí của bà trong lòng.
Cả đời Vua Càn Long viết hơn 4 vạn bài thơ, nhưng chính thức lưu truyền cho hậu thế chỉ hơn 100 bài, đều là vì nhớ thương Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu mà làm.
Ví như:
“Chín cung đều đặt long sàng, giờ đây đối diện bẽ bàng như không”. Tam cung lục viện, tần phi đủ, thế nhưng khi đối mặt với họ mà như là hư không.
“Nhẫn tụng Quan thư thập, chu cầm dĩ đoạn huyền”. Ý là, từ đây ta không đành lòng lại đọc “Kinh thi” ngâm thơ bài “Quan thư”, bởi vì đàn Chu cầm của ta đã đứt dây.
Lúc 80 tuổi, trong một buổi đi thăm mộ Hiếu Hiền Hoàng Hậu, Hoàng đế Càn Long đã viết: “Tam thu biệt hốt nhĩ, Nhất thưởng điện toan nhiên…, Hạ nhật đông chi dạ, Viễn kỳ chính nhập niên”. Ý tứ là: Từ biệt đã nhiều mùa thu rồi, thắp hương cho bà mà ta cầm lòng không nổi nên đã khóc. Ta cũng đã già rồi, không muốn sống đến trăm tuổi, điều duy nhất an ủi chính là, bất quá tối đa có được hơn 20 năm ở cùng bà.
Hàng năm vào ngày giỗ, Hoàng đế Càn Long đều đích thân tới. Lần cuối cùng là lúc ông 86 tuổi. Ông ngồi ở nơi ấy hơn nửa ngày. Mỗi khi có việc đại sự, ông đều đến mộ Phú Sát Thị kể cho bà nghe: “Con gái chúng ta phải lấy chồng rồi”, “Cháu của chúng ta đã thành hôn”, “Chúng ta có chắt rồi”…
Hai người sống bên nhau 22 năm nhưng lại khiến Càn Long thương nhớ suốt 51 năm.
Đăng Dũng biên dịch
Nguồn: soundofhope (Ngô Vĩnh Khang và Dương Thuật Chi)
Đoạn cuối có tham khảo thêm nguồn ĐKN
Xem thêm
Vạn Điều Hay