Ngày xuân, mạn đàm về đạo thưởng trà của người xưa qua danh tác… (Ảnh: Epoch Times)
“Tình ngàn năm vẫn thế; Chỉ có oán hận sầu; Trà ngàn năm vẫn thế; Bát ngát màu bể dâu”…
Văn hóa truyền thống Á đông “cầm, kỳ, thư, hoạ, thi, tửu, hoa, trà” luôn được coi là 8 thú vui tao nhã của các văn nhân mặc khách. Đặc biệt “trà” đã trở thành nét văn hóa độc đáo. Khách tới chơi nhà, gia chủ sẽ rót một tách trà nóng kính cẩn mời khách. Đúng như câu:
“Một chén trà xuân lưu giữ khách,
Cuộc sống thanh nhàn tưởng cõi Tiên”…
Nhân dịp tết đến trăm hoa đua nở, bên chén trà xuân quây quần cùng thân nhân bằng hữu, tri kỷ tâm giao, cùng nhau mạn đàm đôi nét về văn hóa thưởng trà của người xưa, được thể hiện qua một trong số “Tứ đại danh tác” của văn học truyền thống Á đông – “Hồng Lâu Mộng”.
Hồng Lâu Mộng – tác phẩm thấm đẫm hương trà
“Hồng Lâu Mộng”, một trong “Tứ đại danh tác” nổi tiếng thế giới đã có những đoạn miêu tả rất tỉ mỉ và tinh tế về trà và văn hóa thưởng trà. Toàn bộ thiên tiểu thuyết này có tới 273 phân đoạn đề cập đến trà, tới mức có người cho rằng từng trang giấy của truyện đều thấm đẫm hương trà. Tào Tuyết Cần – tác giả của bộ danh tác trên cũng từng đề thơ rằng:
“Cô gái hầu trà xem đã thạo
Lấy ngay tuyết mới thử pha chơi!”…
Trong toàn truyện có kể tên, miêu tả về các loại trà, dụng cụ pha trà, trà đạo, phong tục uống trà, nước trà, trà thực, trà thơ, v.v… Quả đúng là đầy khắp các trang giấy đều ngan ngát hương trà. Qua đây không khó để nhận thấy rằng: Tào Tuyết Cần thực sự là một chuyên gia về trà đạo đích thực.
Gia tộc ba đời của Tào Tuyết Cần gồm Tào Chấn Ngạn, Tào Dần, Tào Ngung, Tào Phủ cha truyền con nối kế thừa cửa hàng dệt ở Giang Nam gần 60 năm. Ảnh hưởng của danh gia vọng tộc và những trải nghiệm cuộc sống phong phú ở Giang Nam chính là nguồn tư liệu sống để ông sáng tác nên những tác phẩm bất hủ.
Có thể nói, Tào Tuyết Cần là người hiểu rất rõ về chức năng và giá trị của trà. Trong tác phẩm của mình ông nhiều lần kể về những câu chuyện liên quan tới trà. Trong “Hồng Lâu Mộng” thì hồi thứ 41 mang tên: “Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon” vốn được nhiều người coi là phần truyện kinh điển nhất của danh tác này bàn về trà. Trong đó có đoạn:
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “Vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên. Giả mẫu nói:
– Tôi không uống trà Lục An đâu.
– Tôi biết rồi. Đây là trà “Lão quân my” ạ.
– Pha bằng nước gì?
– Nước mưa năm ngoái đấy.
Giả mẫu uống nửa chén rồi đưa cho già Lưu [một bà lão ở thôn quê mới ra thăm hỏi và cầu cạnh Giả phủ], Giả Mẫu nói:
– Bà thử nếm trà này xem.
Già Lưu uống một hơi, cười nói:
– Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn.
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Sau đều uống trà rót vào bát trắng có nắp.
…
Về sau, Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy người hầu đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói: “Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy”.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu đã uống chén ấy, Diệu Ngọc sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa…
Ở đoạn truyện sau đó, Đại Ngọc hỏi:
– Nước pha trà đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
– Cô mà lại là người rất tục, nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà 5 năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, hôm nay là lần thứ hai, cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Đoạn truyện trên miêu tả rất tỉ mỉ và tinh tế từ cách chọn trà, chọn nước, chọn bộ đồ pha trà sao cho hợp người hợp cảnh. Lấy ví dụ về cách chọn trà: trà thượng phẩm “Lão quân my” mà ni cô Diệu Ngọc và Giả mẫu đề cập là thích hợp với những người có thân phận cao quý trong xã hội thuở xưa, như các quý bà, công tử, tiểu thư… sau khi thưởng thức những món ăn có nhiều dầu mỡ ngấy ngán thì người ta hay dùng loại trà này.
Diệu Ngọc mang trà “Lão quân my” ra đãi khách vừa hợp người hợp cảnh, lại vừa khéo phù hợp với thói quen dùng trà sau bữa ăn trong văn hóa Á đông xưa. Tình tiết, “Già Lưu uống một hơi, cười nói: Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn” – chính là nói, thông qua cách bình trà và thưởng trà cũng có thể nhìn nhận ra hoàn cảnh, văn hóa, cốt cách của một con người.
Là chuyên gia về trà đạo, Tào Tuyết Cần đã biết cách làm cho trà hòa tan theo các tình tiết cũng như xây dựng nên tính cách của nhân vật. Ông có thể thông qua trà mà miêu tả tận cùng những nỗi bi hài trong tiểu thuyết, chứ không chỉ đơn thuần là viết truyện và viết về trà.
Mượn trà để nói về người
Phẩm chất quý giá nhất của Bảo Ngọc là tôn trọng mọi người. Có nhà văn từng bình luận: “Trong màn sương mù của sự bi thương tràn ngập khắp Hoa Lâm, người có thể hít thở và lĩnh hội, duy chỉ có một người là Bảo Ngọc”.
Xã hội vẩn đục được mô tả trong “Hồng Lâu Mộng” vốn không coi trọng nữ giới, duy chỉ có Bảo Ngọc là thể nghiệm và nhận biết được tài năng xuất chúng và số phận đau buồn của họ. Trong giấc mơ nơi Ảo Cảnh, Bảo Ngọc đã uống hai thứ, một là “Thiên hồng nhất quật” (đồng âm với ‘Thiên hồng nhất khốc’ – ngàn bóng hồng cùng khóc) và hai là “Vạn diễm đồng bôi” (đồng âm với ‘Vạn diễm đồng bi’ – vạn vẻ đẹp đều buồn), sau đó lại được thưởng thức mười hai khúc “Hồng Lâu Mộng”.
Từ đáy lòng mình, Bảo Ngọc thấu hiểu vô hạn với nỗi khổ thầm kín của nữ nhi. Bằng trực quan, Bảo Ngọc linh cảm được sự miễn cưỡng và gò ép của Lý Hoàn, nhưng không thể diễn tả bằng lời, mà phải biểu hiện bằng việc chê trách Đạo Hương Thôn – nơi các bậc trưởng bối phân cho Lý Hoàn ở. Đương nhiên những câu phê bình của Bảo Ngọc khiến Giả Chính nổi xung, bởi qua đó Bảo Ngọc đã hạ thấp tôn ty của Giả phủ.
Loại trà mà Lâm Đại Ngọc thường uống là trà Long Tỉnh, có thể coi là loại trà thể hiện sự thanh cao, tinh khiết. Trong hồi thứ 82 có đoạn miêu tả như sau: “Đại Ngọc mỉm cười rồi gọi Tử Quyên: Đem thứ trà Long Tỉnh của ta pha cho cậu hai một chén. Cậu hai giờ đi học, không phải như trước nữa đâu”…
Có một điều thú vị ở đây là, Bảo Ngọc đã đọc sách rồi nên đã có thể uống loại thanh trà này rồi. Đây là biểu hiện của sự tôn trọng những người đọc sách Thánh hiền.
Tương tự như vậy, trong “Hồng Lâu Mộng” có đề cập đến loại trà mà các cô gái trong Vinh phủ uống, đó là trà Phổ Nhĩ và trà Nữ Nhi. Kỳ thực đây chính là cùng một loại trà. Diệu bút của Tào Tuyết Cần là ở chỗ, cùng một loại trà mà các cô gái cao quý ở Di Hồng Viện uống thì gọi là “trà Nữ Nhi”, mà các cô gái ở Hiếu gia dùng thì gọi là “trà Phổ Nhĩ”.
Một điều vô cùng hàm xúc khác là, tên các vở kịch, đơn thuốc, tên gọi của trà… đều có mối quan hệ tới nội dung chính của bộ tiểu thuyết. Ví dụ, Giả mẫu là biểu tượng tinh thần đại diện cho toàn Giả phủ, sự cao quý của Giả mẫu làm những người xuất gia như ni cô Diệu Ngọc cũng kính cẩn lễ phép. Nên mới có việc nhắc tới hai thượng phẩm “Lục An trà” và “Lão quân my” trong tiệc trà mà ni cô Diệu Ngọc dùng đãi các khách quý. Trà Lục An mà Giả mẫu nói, đối với người xuất gia như ni cô Diệu Ngọc vốn chưa quên tình cảm với Bảo Ngọc mà nói, có thể là một sự ví von “bóng gió” nhẹ nhàng vô hình.
Phong tục trong trà đạo và sự tinh tế của người xưa
Trong Hồng Lâu Mộng còn viết về một phương diện khác của trà đạo, đó là “tục”.
“Tục” ở đây chính là chỉ tập tục, thói quen, ví dụ trà súc miệng, trà đãi khách, dùng trà chan canh, trà làm mai mối, v.v… Ví dụ, trà súc miệng là một cách sử dụng khác của trà. Dưới ngòi bút mô tả của Tào Tuyết Cần, ta có thể thực sự cảm nhận được sự phú quý và am hiểu kiến nề nếp, văn hóa, gia phong trong các gia đình quý tộc. Qua đây cũng cho thấy ông quả thực là người đã từng “trải qua, xem qua”:
Cũng ở hồi thứ 41 của “Hồng Lâu Mộng”, có kể về cảnh ni cô Diệu Ngọc dùng tiệc trà tiếp đãi riêng Bảo Ngọc và các tiểu thư khuê các của Giả phủ khi tới thăm Am Lũng Thúy như sau:
Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác”(2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn”(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ”(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều”(5) khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng”(6), sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!
Bảo Ngọc nói:
– Tục ngữ có câu: “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì những đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?
– Uống hết được.
– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:
– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”…
Dâng trà khi khách tới là một quy tắc quan trọng trong Giả phủ. Tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” cũng nhiều lần mô tả cách thức dùng trà đãi khách mang đậm màu sắc văn hóa và thuần phong mỹ tục của người xưa, hay trong cung cách ngoại giao, đối nhân xử thế của tầng lớp danh gia vọng tộc. Ngoài ra, Hồi thứ 49 có mô tả cảnh Bảo Ngọc dùng nước trà chan vào cơm ăn vội… Bởi mặc dù Giả Bảo Ngọc là người “giàu sang rảnh rỗi” nhưng thực tế lại bận rộn hơn bất cứ ai, vị công tử hào hoa này được gọi là “nhân vô sự bận”…
Trà như thơ, có uyển chuyển hàm súc, lại có phóng khoáng ngang tàng. Trà cũng như thư pháp, có đầy đặn như “khuôn trăng”, có thanh mảnh cứng cáp như “liễu cốt”, có quy củ như Lệ Khải, lại có mãnh liệt phóng khoáng như “Điên Trương Cuồng Tố”. Mỗi người lại vì nguyên nhân khác nhau mà thích trà: vì thanh đạm, vì ngọt hậu, vì đắng chát, vì nhẹ nhàng, vì hồi vị…
Trà với mỗi người có mối duyên phận vô hình mà sâu xa. Có vô vàn loại trà: trà tươi, hoàng trà, bạch trà, thanh trà, hồng trà, hắc trà… Trà theo vùng thổ nhưỡng, các danh trà nổi tiếng không thể nào kể hết. Còn có đủ kiểu, đủ quy tắc, cách thức về pha trà, thưởng thức trà… Cho dù nói đến loại nào, thì từng người yêu trà sẽ có cách riêng của mình để mà thưởng thức, để mà bình phẩm. Yêu trà là niềm yêu thích phát ra từ trong tâm, mỗi người cũng đều có thể tự thưởng thức một chén trà.
Đường Tân
(Tổng hợp)
Bạn bình luận gì về tin này?
NTD Việt Nam