Những hình phạt thảm khốc dưới địa ngục. (Ảnh: Wikimedia)
Khi nhắc đến sự tồn tại của thiên đường và địa ngục, có người tin và cũng có người không tin. Vậy thực sự thiên đường địa ngục có tồn tại hay không? Nếu có thì quy luật vận hành và ghi chép công – tội nơi âm tào địa phủ được định đoạt như thế nào?
Trong văn hoá tín ngưỡng của các dân tộc phương Đông nói chung và người Việt Nam ta nói riêng, luôn có một niềm tin mãnh liệt vào Thần linh, tin vào nhân quả luân hồi, tin vào thiện ác hữu báo, tin rằng mọi thứ mình có được đều do phúc đức tạo thành… người sống thiện lương ắt được Trời cao bảo hộ, có được an lành, cơm no áo ấm. Người sống ác độc, sát sinh hại vật, tâm địa bất lương ắt sẽ chiêu mời họa hoạn… Hai câu chuyện về việc ghi chép, phán xử công – tội của chúng sinh tại âm tào địa phủ dưới đây sẽ phần nào minh chứng cho điều này…
Câu chuyện thứ nhất: Âm tào địa phủ đã ghi chép và miễn trừ tội trạng nhân gian như thế nào?
Hòa thượng Trí Húc tự là Ngẫu Ích, là một trong tứ đại cao tăng danh tiếng cuối đời Minh. Đương thời, ông có biên soạn một cuốn sách với tên gọi: “Kiến văn lục”, ghi chép lại những điều mà ông từng trải nghiệm, “mắt thấy tai nghe”, trong đó có đề cập đến một câu chuyện như sau:
Có một thư sinh tại đất Sở, tâm địa chính trực thiện lương, vốn đang miệt mài theo đuổi nghiệp đèn sách thi cử. Vừa hay khi đó đại điện thứ 7 của âm phủ thiếu người nên Ngọc Hoàng Đại Đế phái thư sinh này tạm thời xuống phụ trách công việc ở đó.
Cứ cách mấy ngày nguyên thần của thư sinh này lại ly thể đi đến âm phủ xử lý công việc của nội phủ thuộc tầng đại điện thứ 7. Công việc chủ yếu của anh ta là chịu trách nhiệm chỉnh lý lại sổ ghi chép của âm phủ chứ không cần phải trực tiếp xử án phán tội.
Thư sinh này phát hiện mỗi một người trên trần gian khi được giải đến cõi âm phủ đều được căn cứ theo lượng nghiệp – đức của mình khi còn sống tại cõi trần tạo ra mà phải chịu tội báo hay được hưởng phúc phận tương ứng. Mỗi khi thư sinh này nhìn thấy những người bị giải tới âm phủ phải lên núi đao biển lửa liền vội vàng tới cứu. Nhưng càng cứu thì tình trạng của họ lại càng thảm khốc, sự đau đớn càng tăng gấp bội, thông thường đều là vô phương cứu chữa.
Một hôm trong lúc xem lại sổ sách, đột nhiên anh ta phát hiện trong sổ ghi chép tội trạng có ghi tên vợ mình, trong đó ghi tội trộm một con gà của hàng xóm, nặng cả lông là 1 cân 12 lạng (Thời cổ một cân là 16 lạng). Vậy là thư sinh này liền gấp trang sổ đó lại đánh dấu.
Sau khi nguyên thần trở về dương gian, chàng thư sinh mới hỏi lại vợ mình có phải đã trộm gà của hàng xóm không? Lúc đầu người vợ của anh ta phủ nhận nhưng sau đó nghe chồng mình kể lại chuyện đã thấy dưới âm phủ mới liền sợ hãi khai ra. Thì ra do gà nhà hàng xóm chạy sang ăn lương thực của nhà mình đang phơi ở sân nên cô ta lỡ tay đánh chết. Vì sợ hàng xóm chửi bới nên đã đem giấu nó đi, đến nay vẫn chưa có ai phát hiện.
Nghe vợ kể xong sự tình, hai người bèn lấy gà ra cân, quả đúng là 1 cân 12 lạng không sai một ly! Vợ chồng cùng nhìn nhau kinh ngạc, sổ âm gian quả là chuẩn xác phi thường. Cân gà xong hai vợ chồng thư sinh liền cầm gà chết và một số tiền tương ứng sang nhà hàng xóm tạ tội nhận sai, xin bồi thường.
Không lâu sau đó, thư sinh này trở lại âm phủ làm việc, liền mở trang sổ ghi chép đã đánh dấu trước đó ra xem, liền thấy tội trạng của vợ mình đã không còn trong sổ ghi chép nữa cứ như thể chưa hề tồn tại vậy.
Từ câu chuyện trên có một số ý kiến mạn đàm cho rằng:
– Sổ ghi chép những việc làm của con người dương thế tại âm phủ là vô cùng chuẩn xác, một chút cũng không sai lệch.
– Thời gian ghi chép chuẩn xác ngay khi sự việc diễn ra mà không có sự khác biệt. Bên này làm, bên kia liền ghi chép.
– Chế độ giám sát của âm phủ đối với thế gian con người vô cùng khoa học và minh xác, tất cả đều tự động.
– Việc làm công tư phân minh, không có chuyện quan hệ thân thích được miễn giảm hay trừ tội, tất cả đều công khai.
– Cơ chế này hoạt động hoàn toàn dựa trên quy tắc đạo đức, người phạm tội nếu kịp thời hối cải và sửa sai ắt sẽ được miễn trừ.
Có thể thấy thế gian vạn sự đều có sự tương quan, việc trần vừa làm thì việc âm đã chép. Thiện ác hữu báo đó cũng là điều không còn gì có thể bàn cãi…
Câu chuyện thứ hai: Từ cõi chết trở về mới biết báo ứng là có thật
Câu chuyện “Trương Đồng xuống địa ngục” trong cuốn “Tục Di Kiên Chí” có kể lại như sau:
Vào thời Nam Tống, tại đầu thôn Nam Hàm, huyện Bình Dư, Hà Nam có một ông lão họ Trương, mọi người thường gọi ông là Trương Lão Hán, người này kiếm sống qua ngày bằng nghề bắt chim. Trong nhà Trương Lão Hán chỉ có một cậu con trai, tuổi còn khá nhỏ…
Một ngày kia, con trai Trương Lão Hán đột nhiên qua đời. Lão Hán vừa thương con vừa sầu muộn nghĩ tới việc về già không có chỗ nương tựa, cả ngày khóc lóc thảm thiết không thôi. Sau khi mai táng con trai xong, trong lúc Lão Hán đang ngồi khóc lóc bên mộ con mình, bỗng ông nghe thấy có tiếng rên trong mộ, ông kinh ngạc nghĩ: “Con trai ta đã sống lại rồi chăng?!” Vậy là Trương Lão Hán lập tức hô hoán mọi người tới bới mộ ra xem thử, quả nhiên đứa con trai của ông đã sống lại.
Sau khi được cứu lên khỏi mộ, đứa bé kể lại rằng: “Sau khi con chết, bị âm sứ giải đến âm ty, con đau khổ cầu xin quan âm phủ, nói rằng: ở nhà còn có cha mẹ già, xin cho con được sống lại phụng dưỡng cha mẹ cho đến cuối đời, làm trọn đạo hiếu của người làm con rồi mới về âm gian, được vậy có chết cũng không hối tiếc. Quan âm phủ thấy hoàn cảnh con đáng thương nên thả con về, trước lúc đưa con về quan âm phủ bảo: Hôm nay ta cho ngươi trở về nhưng với điều kiện ngươi phải nói với cha ngươi từ nay không được bắt chim, sát sinh hại vật nữa, làm được như vậy mới có thể kéo dài được thọ mệnh cho ngươi!”…
Trương Lão Hán nghe xong hồn xiêu phách lạc, lập tức về nhà đem thiêu hủy hết lưới bắt chim cũng như các loại dụng cụ săn bắt khác, rồi dẫn con trai lên chùa bái Phật. Khi lên tới chùa, con trai của Trương Lão Hán thấy trong chùa có một vị tăng nhân họ Lữ, tuổi chưa đến 40, dáng người cao lớn. Cậu bé liền hỏi vị tăng nhân rằng: “Sư thầy cũng được hồi sinh rồi sao?”.
Vị tăng nhân họ Lữ sửng sốt nói: “Ta đã từng chết bao giờ đâu?”
Cậu bé liền kể rằng: “Lúc ở âm gian con đã nhìn thấy thầy, thầy bị trói lên một cây cột đồng ở góc điện, xích sắt trói chân, lính cai ngục dùng gậy đánh tới tấp vào dưới nách thầy, máu chảy đầm đìa. Khi được quan âm phủ thả về, con đã hỏi lính cai ngục rằng cớ sao người kia phải chịu tội như vậy? Lính cai ngục nói, trong sổ sách dưới âm ty đã ghi chép rõ tội trạng: Y nhận lời tụng niệm kinh văn cho trai chủ (người cúng dường cơm chay), vậy mà lại tắc trách, bỏ sót rất nhiều phần không niệm, vậy nên phải chịu ác báo này”.
Vị tăng nhân họ Lữ nghe xong rất lấy làm kinh hãi nghĩ bụng: “Thì ra đây là nguyên nhân ba năm nay dưới nách ta bị bệnh lở loét, đau đớn khôn cùng. Việc ta bị lở loét này, con trai Trương Lão Hán không thể nào biết được, lời cậu bé nói chắc chắn đáng tin”.
Cũng kể từ đó tăng nhân họ Lữ kia hàng ngày ở trong phòng thiền chuyên tâm tụng kinh niệm Phật, thành tâm sám hối sai lầm của mình. Qua ba năm sau vết thương dưới nách của ông ta dần dần khỏi hẳn.
Thiện ác hữu báo nhân quả tuần hoàn, việc này ở đời chỉ khác nhau giữa một niệm tin hay không tin mà thôi. Cổ ngữ có câu: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, con người đôi khi vì vô minh mà tạo nghiệp nhưng quả báo thì lại khôn cùng.
Cũng giống như việc hiện nay có không ít chùa chiền và người dân vào tuần rằm mùng một, hay mỗi dịp hành hương, lễ bái, v.v.. thường có thói quen mua chim cá thả phóng sinh để cầu công đức và may mắn cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên đó có thực sự là việc làm cầu may tạo phúc hay không? – Điều này cũng rất khó nói. Bởi lẽ vì để có sinh linh cho mọi người phóng sinh mà người ta phải đi săn bắt khiến cho cá chim muông thú lâm vào cảnh tan đàn nát tổ. Đó là còn chưa kể đến việc nhiều con vật đã bị chết trong thời gian nuôi nhốt trước khi được bán đến tay người phóng sinh. Và ngay cả những con vật được thả cũng lại bơ vơ không biết phải đi đâu về đâu, trong số ấy cũng lại bị chết đi không ít. Tính ra, phóng sinh phúc chưa thấy đâu nhưng họa đã tạo rồi!…
Có người cho rằng, đó là người khác bắt chứ tôi có đi bắt chúng đâu? Nhưng thử hỏi không có cầu, làm sao có cung? Kỳ thực đời người sống giữa lằn ranh nhân và quả, con người vô minh nhiều khi không thể thấu tỏ được căn nguyên của tốt xấu, họa phúc… làm người nếu như trong đối nhân xử thế có thể dùng tấm lòng thiện lương đối đãi với mọi việc thì ấy mới là phúc lớn. Trời cao tự khắc có an bài. Sống thiện lương dẫu phúc báo chưa đến thì họa cũng rời xa, quay đầu là bờ, thiện lương luôn là bến đậu.
Đường Phong biên tập và tổng hợp
– Dựa theo bản dịch của dịch giả Minh Vũ và một số tư liệu khác
(Tài liệu tham khảo thêm: “Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh” quyển thứ 88 “Sử Truyện Bộ”, phần Ngẫu Ích Đại sư “Kiến Văn Tập”).
Bạn bình luận gì về tin này?
NTD Việt Nam