Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Tiến cử người của mình thì không tránh là thân thích, tiến cử người ngoài thì không tránh là kẻ thù, có tài là cử, tuyển người tài để phụng sự việc công, đó vốn là từ đạo lý chọn quan mà Khổng Tử truyền dạy. Ai có thể làm được theo lời dạy đó tất sẽ xuất hiện thịnh thế. Đường Thái Tông chính vì nỗ lực làm theo, bản thân thực hiện, thì mới có được thời thịnh thế thái bình Trinh Quán. Để làm được như lời dạy của Khổng Tử thì yêu cầu bậc đế vương dùng người phải buông bỏ ân oán tình thù cá nhân, một lòng vì việc công, không chút thiên vị. Khi chọn quan, không lấy sở thích cá nhân và mối quan hệ thân sơ làm tiêu chí, mà phải xem xét người ấy có lợi cho dân cho nước hay không, xét xem người ấy có phải là hiền tài để gánh vác được chức quan đó hay không. Quá trình tiến hành thực hiện theo lời dạy của các bậc thánh nhân của Thái Tông được ghi lại chi tiết trong chương “Luận công bình” của sách “Trinh Quán Chính Yếu”, đã trở thành hình mẫu cho hậu thế về cách trị quốc và tuyển dụng người.
Đường Thái Tông phải đối mặt với những lời trách móc từ người thân cận
Đoạn đầu tiên của chương “Luận công bình” đề cập đến việc Thái Tông chọn quan chức mà không né tránh thù hận, điều này làm dấy lên sự bất mãn trong thuộc hạ cũ, nhưng Thái Tông vẫn cứ phụng sự theo lẽ công của thiên hạ, con đường đúng đắn nhất là có tài là cử. Không bị chi phối bởi quan hệ thân sơ.
Đại ý: Đường Thái Tông vừa mới lên ngôi, Trung thư lệnh Phòng Huyền Linh dâng tấu: “Những bộ hạ của Tần Vương Phủ (Thái Tông vốn là Tần Vương) đã theo Hoàng thượng vì chưa được phong chức quan, nên họ đều oán trách Bệ hạ, nói rằng thuộc hạ của Tề vương phủ và Thái tử Đông cung được giao các chức quan sớm hơn họ”. Thái Tông nói: “Thời xưa, bậc đại công là người nhân đức rộng lượng, công bình vô tư. Đan Chu, Thương Quân là con trai của Nghiêu, Thuấn nhưng vì họ vô đức vô tài nên mới phế truất họ; Quản Thúc và Thái Thúc là huynh đệ của Chu Công nhưng Chu Công lại giết họ. Do đó có thể thấy rằng, đã là bậc quân vương cai trị thiên hạ thì phải lấy thiên hạ làm công bằng, không thể có tâm thiên vị. Trước kia Gia Cát Khổng Minh chỉ là thừa tướng của một nước Thục nhỏ, ông ta từng nói: ‘Lòng ta công bằng như cán cân, không thể vì người mà đối xử bên trọng bên khinh’.
Huống chi bây giờ ta đang trị vì một đất nước lớn? Cơm ăn áo mặc của ta và các khanh đều từ bách tính, điều đó có nghĩa là, sức lực của bách tính đã phụng sự cho triều đình, tuy nhiên ân huệ của chúng ta chưa lan tỏa đến muôn dân, sở dĩ ngày nay triều đình chọn người tài là để an định muôn dân. Dùng người chỉ hỏi liệu họ có đủ năng lực gánh vác hay không, sao lại vì mối quan hệ thân sơ, cũ mới mà đối xử khác nhau? Phàm là người, gặp một lần cũng cảm thấy thân thiết, huống chi là thuộc hạ cũ, làm sao có thể quên ngay hết được. Nhưng nếu không đủ tài năng gánh vác, thì làm sao lại vì là thuộc hạ cũ mà phong quan trước được? Nếu hôm nay họ không quản việc mình có thể đảm đương hay không mà chỉ nói rằng họ có lời oán trách, đây lẽ nào là đạo lý công bằng?”
Giải thích: Vương quyền không thiên vị, tiến cử người ngoài không né tránh
Thái tử và Tề vương được đề cập trong đoạn văn này chính là Lý Kiến Thành, anh cả của Thái Tông và Lý Nguyên Cát, em trai thứ tư của Thái Tông. Khi Thái Tông còn là Tần vương, hai anh em này vì ghen ghét công lao bình định thiên hạ của Tần Vương, đã nhiều lần hãm hại Tần Vương trước mặt Đường Cao Tổ, muốn dồn Tần Vương vào chỗ chết. Vì vậy, dùng lời ngày nay mà nói, Thái Tông cùng với những thuộc hạ trước đây của Thái tử và Tề vương là kẻ thù của nhau. Tuy nhiên, Thái Tông đã không vì điều này mà bài xích họ, vì thế mà khiến một số thuộc hạ ban đầu của Thái Tông phàn nàn rằng Thái Tông đã bổ nhiệm chức quan cho thuộc hạ của kẻ thù sớm hơn so với người thân tín của mình. Nghĩa là đối đãi với kẻ thù tốt hơn người của mình.
Trên thực tế, Thái Tông bất quá chỉ là có cái tâm đối xử công bằng với mọi người, dù thân sơ ra sao, có ân oán thế nào, đã từng có thù hay không, miễn là có thể yên định bách tính, có lợi cho bách tính thì ông sẽ sử dụng. Lý do là vì ngài đã ở ngôi hoàng đế, thì đã không chỉ còn là chủ của những người thân cận của mình nữa, mà khi này ngài đã là chủ của thiên hạ, kẻ thù cũng vậy, người thân cận cũng vậy, đều đã trở thành thần dân của mình, cần phải nhất thị đồng nhân (Chú thích: người xưa coi “Nhân 仁” là cái đạo lý làm người, phải thế mới gọi là người. Yêu người không lợi riêng mình gọi là nhân). Những ân oán tình thù cá nhân không nên trở thành tiêu chuẩn tuyển dụng người của Đế Vương, vì vậy ông chỉ có thể chiểu theo địa vị bá chủ thiên hạ mà làm theo đạo: khoan dung tha thứ và công bằng.
Kỳ thực, theo đoạn này, có thể thấy những người phàn nàn này chỉ là một số thuộc hạ cũ của Thái Tông, không phải tất cả. Tất cả thuộc hạ, tùy theo khả năng an lòng dân chúng, đều đã được Thái Tông sắp xếp thỏa đáng. Nếu thuộc hạ của kẻ thù có năng lực và thích hợp hơn thì bố trí cho họ nhậm chức, tiêu chuẩn duy nhất là tài liên cử. Không phải là đối xử với kẻ thù tốt hơn; cũng không theo thứ tự trước sau nào cả; cũng không nhất định rằng sau này sẽ sắp xếp chức quan cho những thuộc hạ gọi là rơi rớt lại này, nếu không có năng lực thì có thể cả đời không được bổ nhậm.
Thái Tông rất sáng suốt và hiểu rõ việc bổ nhiệm các chức quan, mục đích là mang ân trạch cho bách tính, làm yên lòng dân, vì vậy, tất cả các chức quan đều là công chức, những người làm việc công, chứ không phải là tài sản riêng của hoàng đế, mà có thể tùy tiện ban cho người khác. Nhất thiết phải sử dụng những cái đó với lẽ công bằng. Đây chính là hàm nghĩa Hoàng quyền vô tư mà cổ nhân đã dạy. Thái Tông hiểu sâu đạo lý đó, nêu ra các vị thánh vương được công nhận như Nghiêu, Thuấn và các đại thần nổi tiếng như Chu Công và Gia Cát Khổng Minh để minh họa rằng ông chỉ là làm tròn trách nhiệm của một đế vương, nhất thị đồng nhân, đối xử bình đẳng và công bằng với họ, ngăn chặn những lời lẽ sai trái này một cách có lý có căn cứ, bác bỏ những lời phàn nàn của một số cựu thần.
Nói thẳng ra, Thái Tông đứng ở dưới góc độ bảo vệ bách tính, trong khi những thuộc hạ phàn nàn chỉ nhìn vấn đề từ góc độ lợi ích cá nhân của họ. Họ vì thế mà sinh lòng oán hận. Cách làm của Thái Tông ở đây chính là thực tiễn của việc “ngoại cử bất tị thù” (tiến cử người ngoài thì không tránh là kẻ thù). Chọn quan chức không né tránh kẻ thù theo quan hệ cá nhân. Vậy “Nội cử bất tị thân” nghĩa là gì? Trước khi trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta hãy làm rõ hàm nghĩa thực sự của câu có tài là cử.
Cứ có tài là cử, được cử là vì tài năng của người hiền tài
Cái tài này là chỉ hiền tài, cũng chính là nói tất phải có tài đức vẹn toàn. Người chỉ có tài trí mà không có đức thì bị người xưa coi là tiểu nhân, tài trí của kẻ tiểu nhân sẽ mang lại tai họa cho đất nước và nhân dân, vì vậy khi người xưa nói có tài là cử thì tất đó phải là người tài đức vẹn toàn. Mặc dù ở đây Thái Tông không bàn luận cụ thể về điểm này, lý do không cần phải nói nhiều về khái niệm này vì người xưa vốn có yêu cầu rất cao đối với phẩm hạnh của con người, đây là khái niệm cơ bản, dù anh có là quan chức hay không, cũng đều phải theo con đường nhân nghĩa để yêu cầu bản thân mình, nhưng nếu anh không đọc sách, không có khả năng và kiến thức cụ thể để làm quan chức, chẳng hạn nếu anh không biết chữ, không thể viết công văn, thì làm sao xử lý công vụ được? Cũng giống như một người thầy thuốc, nếu chỉ có tấm lòng nhân hậu cứu người và tấm lòng cha mẹ chăm sóc con cái mà không có y thuật thì cũng bất lực, không thể khám bệnh cứu người và trở thành một người thầy thuốc được. Vì vậy, để trở thành một quan chức, đương nhiên ngoài đạo lý cơ bản của một con người, còn cần đến tài năng trí tuệ của một vị quan. Cái tài này là ý nói chỉ những người có tài mới được tiến cử. Không phải là có tài thì không xem xét đến đức hạnh.
Kỳ thực đoạn tiếp theo của chương “Luận công bình” có thể chứng minh rằng tài mà Thái Tông đã nói là chỉ người hiền tài có tài đức vẹn toàn:
Nguyên văn: Trinh Quán nguyên niên, hữu thượng phong sự giả, thỉnh Tần phủ cựu binh tịnh thụ dĩ võ chức, truy nhập túc vệ. Thái Tông viết: “Trẫm dĩ thiên hạ vi gia, bất năng tư ô nhất vật, duy hữu tài hàng thị nhiệm, khởi dĩ tân cựu vi sai? Huống cổ nhân vân: ‘Binh do hỏa dã, phất trấp tương tự phần’. Nhữ chi thử ý, phi ích trị lý.”
Đại ý: Năm Trinh Quán thứ nhất, có người dâng sớ tấu việc, xin cho các binh sĩ trước kia của Tần vương phủ đều được nhận chức võ quan, bổ vào cung cấm làm thị vệ. Thái Tông nói: “Trẫm coi thiên hạ như nhà mình, không thể có lòng riêng với bất cứ việc gì, chỉ có thể bổ nhiệm những người có tài năng đức hạnh, sao có thể vì người mới người cũ mà có sự khác biệt trong đối xử? Huống hồ cổ nhân nói: ‘Dùng binh như dùng lửa, dùng mà không kiểm soát được sẽ thiêu mình’. Ý kiến này của khanh không ích gì cho việc trị nước”.
“Chỉ có người tài năng đức hạnh mới tiến cử” ở đây có nghĩa là những người có tài đức vẹn toàn là tiêu chuẩn chọn quan dùng người duy nhất. Hơn nữa còn giảng rõ thêm hàm nghĩa của có tài là cử. Kỳ sau, chúng ta hãy nói về cách Thái Tông hiểu “Nội cử bất tị thân” (tiến cử người của mình thì không né tránh là thân thích).
Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/250208
Ngày đăng: 29-12-2022
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.
ChanhKien.org