Trong lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng, không một sinh mệnh nào thoát khỏi sự câu thúc của Pháp lý “thành-trụ-hoại-diệt” của vũ trụ cũ. Các vị Thần tại cảnh giới cao thấy được sự biến dị và bại hoại theo tháng năm dài đằng đẵng của các nhân tố vật chất ở tầng thứ của các sinh mệnh tại cảnh giới thấp mà lo lắng bất an. Không chỉ một vị Đại Giác Giả vì để cứu vãn chúng sinh của mình, vì để chứng ngộ Phật Pháp kim cương bất hoại đã liều mình trước nguy hiểm, đầu thai đến thế giới thập ác, [với mục đích] tôi luyện Phật Pháp “tối chính” để mang về thiên quốc của mình. Ngờ đâu nhân thế hiểm ác, chính mình cũng bị hủy tại nơi con người mà không về được nữa. Các vị Thiên Chủ, Như Lai tại các tầng thứ khác nhau đang không ngừng quan sát, suy nghĩ cách giải quyết căn bản với kiếp nạn cuối cùng mà chúng sinh trong vũ trụ đang phải cùng nhau đối diện.
Bấy giờ Sư tôn vĩ đại xuất hiện tại tầng cao của vũ trụ. Trong quá trình chuyển sinh đi xuống tại các tầng, đã khai truyền “Đại Giác chi Pháp” bất khả tư nghị tại các tầng khác nhau trong đại khung vũ trụ. Tuyệt đại đa số các Phật, Đạo, Thần vẫn đang không ngừng quan sát sự biến hóa, phát triển của thế cuộc. Một số Giác Giả quyết tâm trợ giúp Sư tôn chuyển động Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Sư tôn xuống đến tầng thứ thiên thể vũ trụ [nơi] sinh mệnh tôi đang tồn tại, giảng một lần Pháp cho tất cả Đại Pháp Vương, Thiên Chủ tại tầng thứ đó của tôi. Sau khi nghe Sư tôn giảng Pháp xong, tôi càng hiểu rõ thêm nội hàm thâm sâu của sự tồn tại của sinh mệnh, quyết tâm trợ Sư Chính Pháp. Thế là tôi và bốn vị Đại Pháp Vương trong cảnh giới đó của tôi cùng theo Sư tôn đi xuống nhân thế. Khi xuống đến một nơi gọi là thế giới thiên quốc Đại Quang Minh, bên bờ núi xanh khe suối, trông thấy người con trai của Pháp Vương Như Lai ở cảnh giới đó đang khổ tâm nghĩ cách giải cứu kiếp nạn cho chúng sinh. Tôi liền bay đến bên cạnh của Pháp Hoàng Tử và nói với anh: “Phật Chủ sẽ giáng hạ xuống phàm, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đây là cơ hội tốt nhất, tại sao không theo Phật Chủ cùng nhau đi xuống thế gian tôi luyện, đúc nên Pháp kim cương bất hoại?” Pháp Hoàng Tử không chút lưỡng lự, nói: “Mong được thượng thần dẫn kiến, bái kiến Phật Chủ, để bày tỏ tâm ý”. Tôi nói: “Hãy theo tôi”. Tôi và Pháp Hoàng Tử đi đến thiên cung Đại Minh Uyển của Sư tôn.
Sư tôn ngồi trên đài sen cao, Pháp tướng thần thánh trang nghiêm vô tỷ. Khấu đầu xong, tôi nói: “Thưa Phật Chủ, hai người chúng con nguyện cùng Ngài đi xuống nhân thế, trợ giúp Ngài hồng dương Phật Pháp, cứu độ chúng sinh”. “Hai người phải biết nhân thế hiểm ác, con đường gian khổ?” Tôi nói: “Hai người chúng con nguyện dựa vào Pháp lực của Phật Chủ, không sợ sống chết. Để bày tỏ quyết tâm, xin dùng thệ ước làm chứng”. Sư tôn từ bi nhìn chúng tôi, vẫy tay một cái, trước mắt liền xuất hiện hai chiếc bàn, trên bàn có hai cuộn giấy giống như lụa màu vàng. Tôi viết lên, thệ ước: “Một, dùng chính niệm để chứng thực Phật Pháp vĩ đại. Hai, nếu như có tà ác phá hoại Đại Pháp, nhất định sẽ dùng tính mạng để duy hộ, bảo vệ Pháp điển vĩ đại trang nghiêm. Ba, nếu có làm trái thệ ước, tất sẽ gặp ác báo hình thần toàn diệt”. Trong số các đệ tử Đại Pháp, một số đồng tu ở các tầng thứ thiên quốc khác nhau đã từng ký thệ ước với Sư tôn. Nội dung cơ bản không khác nhau nhiều, chỉ là trọng điểm không giống nhau.
Sau khi từ biệt Sư tôn, ra khỏi Đại Minh Uyển, Pháp Hoàng Tử nói với tôi: “Nhân thế gian nan hiểm ác, năm tháng dài đằng đẵng, nếu có mê mất cũng mong thượng thần gia hộ cho”. Tôi nói: “Tôi chắc chắn sẽ duy hộ, không để mê mất. Nếu như tôi có mê mờ trong nhân thế, cũng hy vọng Pháp Hoàng Tử cứu tôi khỏi phút sinh tử”. Pháp Hoàng Tử nói: “Tôi chắc chắn cũng phải dùng sinh mệnh để duy hộ”.
Pháp Hoàng Tử sắp phải đi xuống, Như Lai và chúng Thần thân thiết nơi thiên quốc Đại Quang Minh lưu luyến không nỡ, lệ tuôn đầy mặt, sợ rằng lần ly biệt này sẽ không còn ngày gặp lại Pháp Hoàng Tử. Pháp Hoàng Tử nhìn chúng Thần kiên định mà nói: “Tôi nhất định sẽ trở về, đây là một hạt giống Thiên diệp cúc, khi cánh hoa màu vàng thứ 1.000 của Thiên diệp cúc khai nở, thì chính là thời khắc tôi sẽ trở về!” Nói xong bèn mang hạt giống Thiên diệp cúc để vào trong đất của thiên quốc, rồi kiên quyết quay lưng đi xuống. Hai người chúng tôi cùng chúng Thần theo Sư tôn tiếp tục đi xuống nhân thế. Quá trình từ thiên quốc đi xuống đến tam giới, dùng quan niệm thời gian của con người cũng là tháng năm cực kỳ dài đằng đẵng không cách nào hình dung được.
Khoảng 67 triệu năm trước, quỹ đạo vận hành của trái đất không phải như hiện nay, nó gần với mặt trời hơn, nhiệt độ trên trái đất hàng năm cao hơn, nhiệt độ bề mặt bình quân hàng năm là 45 độ C trở lên. Khi đó nhân loại đa số là sống trong các hang động hoặc trong lòng đất. Thềm lục địa cũng không phải hình dáng như hiện nay. Khi đó bắc bán cầu của trái đất có hai thềm lục địa lớn chủ yếu, là nơi cư ngụ của tộc người khổng lồ, dáng người trông khoảng 3 mét. Còn nam bán cầu có bốn thềm lục địa, đa số là do người tầm trung, người thấp bé cư ngụ, ở giữa nam bắc bán cầu còn có một số hòn đảo và quần đảo với hình thù to lớn. Do đó cự nhân, trung nhân, tiểu nhân sống xen kẽ với nhau.
Động, thực vật trên lục địa có sự khác biệt to lớn so với các động thực vật đang tồn tại trên trái đất hiện nay. Khoảng 67 triệu năm trước, trên lục địa, trên bầu trời, trong lòng biển của trái đất có đầy các loại hình quần thể khủng long. Thực vật trên lục địa chủ yếu là các loại cây lớn nhiệt đới và tảo. Trái đất vào lúc đó đã từng là khu vườn lạc thú của loài khủng long. Trong lòng đại dương cũng có mấy chủng nhân loại. Khi đó chủng tộc mỹ nhân ngư đã tồn tại ở trong lòng đại dương. Dưới biển còn có một loại nhân ngư, tính tình hung tàn. Có cả hai loại hệ thống hô hấp bằng phổi và bằng mang, bề mặt thân thể phủ chi chít vảy, màu xám thép. Hai con mắt ở phần đầu chiếm 1/3 khuôn mặt, phần mũi có 2 lỗ, miệng giống như của cá chép, ở trong trải đầy các răng sắc nhọn, dáng cao gần 2 mét. Có màng giữa các ngón tay, và chân. Loại nhân ngư này thường xuyên bò lên mặt đất để ăn thịt [chủng] người tầm trung và các loại khủng long ở lục địa. Vũ khí của chúng là xương sườn của các di hài động vật khổng lồ được mài sắc. Tại hai thềm lục địa lớn của bắc bán cầu, nơi chủng người khổng lồ tập trung sống chủ yếu, có 13 quốc gia vương quốc, khi đó tôi sống tại vương quốc tộc người khổng lồ ở vùng phía đông nhất. Vì [là nơi] thấy mặt trời sớm nhất, nên quốc gia này được gọi là Thái Dương chi quốc, có 13 loại tín ngưỡng tôn giáo trong 4 quốc gia. Do bất đồng tín ngường mà thường xuyên xảy ra chiến tranh.
Theo tập tục khi đó, ngay từ lúc còn nhỏ (mới bỏ sữa mẹ), tôi đã được Đại Tế tư của Thái Dương quốc lựa chọn, tiến hành học tập tôn giáo, tu luyện, đồng thời làm người kế tục của ông. Tác dụng của Đại Tế tư là quan sát thiên tượng, dự đoán thịnh suy của quốc gia, dự báo thiên tai tự nhiên, phụ tá quốc vương, lấy đức trị quốc, thừa tiếp Thiên ý, giáo hóa dân chúng, khôi phục nguyên khí. Trải qua 35 năm gian khổ độc tu trong tôn giáo, tôi tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ cao độ, chiếu theo Thiên ý, bắt đầu hồng dương Phật Pháp. Phật Pháp mà tôi chứng ngộ, hồng dương có tên là Pháp Đại Nhật Giác. Trên dưới người dân trong Thái Dương quốc, bao gồm cả quốc vương đều là tín đồ của Phật Pháp. Các chiến sĩ của bộ tộc thống nhất việc ăn ở, thống nhất kỹ năng luyện tập quân sự, cũng thống nhất tiến hành tu luyện tôn giáo, giống như là các võ tăng Thiếu Lâm thời xưa vậy, quyền thiền hợp nhất. Quốc vương của Thái Dương quốc, Hakan Achilles (đứa con của chúng Thần) thường xuyên mời tôi đến hoàng cung để cùng với các chúng đại thần nghe tôi tuyên giảng Phật Pháp, người quốc vương này chính là vị Pháp Hoàng Tử của thế giới Đại Quang Minh đã nói đến ở trên. Có một khoảng thời gian, tôi vào cung nhiều lần trông thấy Hakan Achilles bỏ bê triều chính, suốt ngày lấy rượu làm niềm vui, thấy vậy tôi đã nói với quốc vương Thái Dương quốc: “Thưa đại vương, những tháng ngày qua, ý chí của ngài sao lại chùng xuống. Ban đêm tôi quan sát thiên văn, thấy được quốc gia tà giáo Tư Mễ Đảo đang liên kết với các vương quốc lân cận có ý đồ đại quy mô xâm chiếm nước ta, không biết đại vương đã có dự tính gì chưa?” Hakan Achilles cười nói: “Nước chúng ta quốc phú dân cường, chiến sĩ quân đội dũng mãnh, người Tư Mễ Đảo sao dám đến tấn công, ta đã chán mệt với việc đánh nhau chém giết, nên an hưởng sự phồn hoa thịnh vượng”.
Tôi nói: “Hạnh phúc của một người đối với bản thân anh ta mà nói là rất quan trọng, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người đang bị tà giáo mê hoặc. Sự sống chết giống như một con cừu lạc treo trên dây, trời cao đã giao phó cho đại vương trách nhiệm lịch sử vĩ đại, đại vương cần phải cứu chúng sinh thiên hạ trước cơn nước sôi lửa bỏng. Giữa hạnh phúc cá nhân và lợi ích của chúng sinh thiên hạ đại vương cần phải có sự lựa chọn, hy vọng đại vương hãy lấy chúng sinh thiên hạ làm trọng, tu kỷ trị quốc, vì chúng sinh thiên hạ mà khai sáng cơ nghiệp thiên cổ, vĩnh viễn vui hưởng thái bình thịnh vượng”. Quốc vương Thái Dương mặt đầy nét hổ thẹn, nói: “Ta nhất định sẽ ghi nhớ lời nói của ông, vì để dân chúng thiên hạ hạnh phúc vĩnh cửu, ta sẽ cống hiến mọi thứ của ta”. Từ đó, quốc vương Thái Dương quốc Hakan Achilles nghiêm khắc với chính mình, chăm lo trị quốc, toàn lực tận tâm trị vì đất nước, trải qua cố gắng gian khổ đã đánh bại liên minh của tà ác, thống nhất được hai thềm lục địa của tộc người khổng lồ.
Sau khi tất cả chiến sự kết thúc, Hakan Achilles, vị vua của quốc gia người khổng lồ đứng trên đỉnh của một ngọn núi, ngón tay chỉ về phía đường chân trời xa xôi và nói với tôi: “Những vùng đất mà ta đã đi qua, tất cả quốc thổ của ta, đều là những nơi ông sẽ hồng dương Phật Pháp. Nếu như cần sự giúp đỡ, ta sẽ toàn tâm tận sức. Ta trao quyền cho ông, hãy giáo hóa muôn dân của ta nhé!” Tôi nói: “Thưa đại vương, tôi nhất định không phụ sứ mệnh….” Bảy nghìn năm sau, Phật Pháp mà tôi hồng truyền đi vào thời kỳ mạt pháp.
Một buổi sáng yên bình, khi con người mới thức dậy sau giấc ngủ say, giữa bầu trời con thằn lằn bay đang vươn đôi cánh dài gần 10 mét kèm theo tiếng kêu chói tai nhằm về phía con mồi. Trong khu rừng lá rộng nhiệt đới một con kiếm long đang dẫn theo con nhỏ của nó uống nước bên dòng nước yên tĩnh, không xa đó một con khủng long bạo chúa háu ăn đang nhăm nhe mẹ con của kiếm long. Bất chợt từ nơi xa truyền đến một loại âm thanh đặc biệt, âm vang, tất cả đám khủng long trong rừng đều vểnh tai lên hướng về nơi mà âm thanh truyền đến, mọi người sợ hãi ngẩng đầu nhìn về nơi góc trời; một tiểu hành tinh với đường kính 25 km (bằng với một thành phố nhỏ) mang theo âm thanh ầm ầm dữ dội do sự ma sát với không khí phát ra, đang đâm vào trái đất với tốc độ 30 km/giây. Không lâu sau truyền đến một tiếng nổ lớn kinh thiên động địa, toàn bộ trái đất đều đang rung chuyển. Trái đất bị đâm lệch khỏi quỹ đạo vốn có, bay xa ra khỏi mặt trời. Sau khi tiểu hành tinh này đâm trúng trái đất, cùng với sự va đập của tiểu hành tinh, mấy thềm lục địa lập tức chìm xuống đáy biển. Sau va chạm các mảnh vụn của đá, bụi, cộng thêm nước biển bị khí hóa đã hình thành nên một đám mây hình nấm khổng lồ, không ngừng, không ngừng dâng cao bao phủ cả bề mặt của trái đất, che lấp ánh mặt trời, trái đất rơi vào trong đêm tối. Đồng thời cơn sóng thần khổng lồ cao đến 5 km, cuốn quanh cả trái đất, tiếp theo đó là các trận mưa lớn không ngớt liên tục cả mấy ngày. Đáng sợ hơn nữa chính là do sự va chạm của tiểu hành tinh đưa đến đại biến động của lớp vỏ trái đất và thềm lục địa. Một số hòn đảo lục địa chìm xuống đại dương. Một số lục địa dưới biển vụt khỏi mặt biển hướng thẳng lên trời theo lực va chạm của tiểu hành tinh. Đại dương trước đây biến thành lục địa, còn lục địa trước đây cùng tất cả sinh mệnh, văn minh trên bề mặt của nó chìm sâu xuống dưới biển. Do thềm lục địa và vỏ trái đất không ổn định, không ngừng dịch chuyển, sự va chạm đã đưa đến vô số sự phun trào liên tục của các núi lửa lớn nhỏ, trái đất khói bụi cuồn cuộn cả ngày, tay giơ ra không thấy được 5 ngón. Tro núi lửa dày đặc bốc lên bao phủ cả bề mặt trái đất, tình trạng này kéo dài 32 năm. Do trên trái đất không có đủ ánh sáng mặt trời, các động thực vật gần như là chết hết, loài khủng long cũng do đó mà dần dần tuyệt chủng, trái đất bước vào thời kỳ băng hà. Và như vậy nhân loại của thời kỳ này đi đến sự kết thúc. Những người còn sống sót bước vào một thời kỳ văn minh tiếp theo.
Trong quá trình đại biến động của thềm lục địa, một ngọn núi nằm kề bờ biển ở dưới đáy biển đã nhô lên khỏi mặt biển hơn 8.000 mét, vùng bờ biển đó kết hợp với lục địa vươn cao lên mấy ngàn mét so với mực nước biển. Nhân loại ngày nay của chúng ta gọi ngọn núi ấy là núi Chomolungma, còn cao nguyên do vùng bờ biển ấy hình thành gọi là cao nguyên Thanh Tạng.
Phần 2
Thời gian trôi nhanh, thế sự chuyển dời, trăm ngàn năm qua, con người thế gian không có gì thay đổi, trong sự tranh danh đoạt lợi chỉ biết ái tình, trong lục đạo luân hồi, chấp mê tạo nghiệp, nào biết sợ sẽ rớt sâu xuống địa ngục đâu.
Vào triều Đường, tôi chuyển sinh đến Tây Tạng, khi chuyển sinh đến Hồng giáo Tạng mật để tu luyện đời thứ hai, một lần nọ [tôi] cùng các lạt-ma đi đến phía nam Tây Tạng để tham gia một buổi Pháp hội lớn. Dọc đường đi gặp phải một người điên đang ở bên đường kêu hò ầm ĩ về phía chúng tôi. Trông mặt anh ta có vẻ quen quen. Tôi bèn dừng ngựa lại, khai mở công năng túc mệnh thông nhìn vào người điên ấy. Sau khi xem xong, mọi nhân duyên trước đây của tôi và anh ta [được] tận giải. Tôi xuống ngựa đi đến cạnh anh, người điên nhìn tôi một cách mơ hồ, tôi dùng Phật Pháp thần thông đả khai một bộ phận đã bị khóa kín của anh, rồi hỏi: “Anh, có còn nhớ tôi không?” Đôi mắt mơ hồ của người điên dần dần trở nên sáng lên, từ đôi mắt ấy tuôn ra hai hàng lệ, [anh] nắm lấy tay tôi nói: “Hãy cứu tôi!” Tôi trịnh trọng gật đầu một cái, căn dặn các tiểu lạt-ma bên cạnh dẫn người điên về tu viện Hồng giáo.
Thì ra người điên này chính là Pháp Hoàng Tử, người đã cùng tôi ký nguyện ước Chính Pháp với Sư tôn tại thiên quốc, là quốc vương Thái Dương quốc trước đây. Anh chuyển sinh làm tướng quân triều Tùy, Vũ Văn Thành Đô, vào những năm cuối triều Tùy do danh lợi mà tạo phải tội nghiệp lớn, kiếp này chịu quả báo như thế. Do vào triều Tùy anh đã tạo nghiệp to lớn không thể thọ Pháp tu luyện, chỉ có thể khổ hạnh để tiêu đi tội nghiệp trước. Một đời tu không thành được, phải tu tám đời mới có thể hoàn toàn ngộ lại được bản tính cảnh giới Như Lai.
Tôi căn dặn các lạt-ma giao những việc nặng nhọc nhất, dơ bẩn nhất ở trong tu viện cho người điên làm. Mỗi ngày chỉ cho ăn no, nằm ngủ trong chuồng súc vật, cứ như thế trong 7 năm. Một hôm, tôi hỏi người điên: “Này phong tử, anh có vui không?” Người điên trả lời: “Xin thượng sư truyền Pháp độ tôi đến Pháp giới bỉ ngạn”. Tôi nói: “Tội nghiệp của anh rất nặng, một đời không tu thành được”. Người điên nói: “Xin nghe theo mọi điều dạy bảo của thượng sư”. Tôi thấy Phật tính anh ta hiển hiện, cơ duyên đã thành thục, bèn quán đỉnh, truyền Pháp cho anh, chính thức truyền dạy tu luyện Hồng giáo của Tạng mật cho anh. Sau khi truyền thụ một số Pháp lý tu luyện cơ bản của Tạng mật, [tôi] đưa anh ta vào một sơn động bế quan khổ tu, tụng kinh, hối lỗi nghiệp tội. 13 năm sau, tôi lại truyền dạy phương pháp tu định Hồng giáo Mật tông cho Pháp Hoàng Tử—[gọi là] Chuyết hỏa định. 30 năm sau, có một lần tôi đả tọa tu định, nhìn thấy Pháp Hoàng Tử ác nghiệp đầy người, không lâu nữa sẽ rời khỏi thế gian. Vài ngày sau, Pháp Hoàng Tử xuất hiện bệnh trạng nghiêm trọng, trong khi đi ăn xin ở dưới núi, đã gặp phải cướp rồi vô tình mất mạng.
Tiếp đó, Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến một gia đình dân du mục ở Tây Tạng, đợi đến khi Pháp Hoàng Tử 7 tuổi, tôi đón anh về tu viện Hồng giáo để tiếp tục tu luyện. Do tôi chỉ định một vị đại lạt-ma dạy chữ cho anh, học tập kinh điển của Tạng mật, tuy nhiên các kiếp sống trước đây của anh đã tạo nghiệp to lớn, sau khi thành niên rồi vẫn khổ tu ở trong sơn động, cả đời khổ tu cho đến khi hết thọ mệnh. Đời thứ ba Pháp Hoàng Tử chuyển sinh để tiếp tục tu luyện, và vẫn như thế, khổ tu ở trong sơn động, thuận theo thọ mệnh trời định. Tôi cùng các đại lạt-ma dùng Phật Pháp thần thông để quan trắc sự nghiệp cứu độ chúng sinh trong tương lai ở Tạng địa, thấy được tương lai 33 năm sau sẽ có dị tộc tà giáo xâm lược khu vực Tây Tạng, làm hại chúng sinh. Pháp Hoàng Tử chuyển sinh đến làm con trưởng trong một gia đình hoàng tộc ở Thổ Phồn, do một vị đại lạt-ma phụ trách truyền dạy cho anh công phu bộ hạ, mã thượng, học tập phương pháp bài binh bố trận, đồng thời cũng học tập một số kinh điển Tạng mật. 33 năm sau, năm Mộc Thử của lịch Tây Tạng, Pháp Hoàng Tử đánh bại kẻ địch xâm lược dị tộc, cuộc chiến này đã mang lại 480 năm thái bình thịnh vượng cho khu vực Tây Tạng. Vài năm sau Pháp Hoàng Tử mắc trọng bệnh, rời khỏi nhân thế, đại lạt-ma dẫn đạo vong linh của anh chuyển thế, tiếp tục lịch trình tu luyện.
Dưới đất thềm lục địa trái đất nơi chúng ta sinh sống cũng có nhân loại, chỉ là hình dáng lớn nhỏ có sự khác biệt với nhân loại chúng ta. Bề mặt lục địa dưới chân chúng ta có [chằng chịt như mạng nhện] các đường thông đạo xuống lòng đất ở bên dưới, các lạt-ma Tây Tạng ở các thời đại trước nắm rõ được cánh cửa mạch thông đến thế giới dưới lòng đất tại núi Himalaya. Vào thời cổ đại những người dưới lòng đất thường họp mặt định kỳ với các lạt-ma tại miệng thông đạo đưa đến thế giới lòng đất ở giữa các rặng núi, đôi khi những người dưới lòng đất sẽ xin thức ăn từ các lạt-ma. Người lòng đất đặc biệt thích ăn thịt bò y-ắc (giống bò ở vùng Thanh Hải-Tây Tạng); để báo đáp lại, những người dưới lòng đất sẽ tặng các lạt-ma một túi vàng thỏi quặng, có khi nặng đến trên 100 cân (1 cân là 0,5 kg); đây là những thứ họ phát hiện được ở dưới đất, vàng thỏi đối với họ mà nói là không có ý nghĩa gì cả. Đa số những người dưới lòng đất sống dựa trên thị tộc duy trì mối quan hệ huyết duyên. Vào thời cận đại thì loại tiếp xúc này hầu như đã rất ít.
Dưới lòng đất có hồ nước, có dòng sông, các động vật máu nóng cổ xưa, có các thực vật lòng đất… Trên các truyền thông phim ảnh có một số các hồ nước dòng sông của khu vực con người xuất hiện quái thú. Đại đa số là bởi vì những hồ nước, dòng sông này tương thông với các hồ nước dòng sông ở dưới lòng đất. Sẽ có quái thú dưới lòng đất thông qua đường thủy tương thông để lên trên bề mặt, có khi vừa lên đến thì bị con người phát hiện.
Rất nhiều năm nữa lại trôi qua, trải qua bảy đời khổ tu trong Hồng giáo Tạng mật, tôi chuẩn bị viên mãn. Tôi triệu tập tất cả tín đồ, cư sĩ, lạt-ma trong Hồng giáo lại, tổ chức lần Pháp hội cuối cùng của tôi trong kiếp sống này.
Trước lúc mọi người đến, tôi cho triệu Pháp Hoàng Tử đến trước mặt rồi nói: “Trong tương lai, Phật Chủ Di Lặc vì lợi ích của chúng sinh vũ trụ sẽ chuyển sinh đến đất Hán, chuyển Đại Pháp Luân, phổ độ chúng sinh. Đến lúc đó nhân thế sẽ xuất hiện ma vương dẫn theo con cháu đội lốt người để làm loạn nhân gian, nguy hại chúng sinh. Anh và tôi là Giác Giả chính giác của Phật Pháp, nên trợ giúp Phật Chủ Di Lặc chuyển Đại Pháp Luân, Pháp chính càn khôn tại nhân gian. Dù có phải hy sinh sinh mệnh, cũng quyết không chùn bước. Anh còn phải khổ tu hai đời nữa mới có thể viên mãn được. Tôi đã hoàn thành lịch trình tu luyện Hồng giáo, không lâu nữa sẽ chuyển sinh đến đất Hán để làm một số chuẩn bị cho đại sự mai sau”. Pháp Hoàng Tử song thủ hợp thập nói: “Sẽ không phụ kỳ vọng của tôn giả”.
Sau đó Pháp Hoàng Tử lại trải qua hai đời khổ tu, tính tổng cộng là tám đời, hao tốn 538 năm để tu luyện viên mãn trong Hồng giáo.
Tôi cùng vị đồng tu này, chỉ riêng thời gian Pháp duyên thế gian đã bước qua trăm ngàn năm rồi. Tất cả các đệ tử Chính Pháp của chúng ta đã cùng nhau trải qua vô số tháng năm gian khổ, sinh tử cùng nhau, chưa từng từ bỏ nhau. Có lẽ với vô số các khảo nghiệm sinh tử mà chúng ta cùng đi qua đó, một số đồng tu ở trong mê đã phai nhòa đi, bị lịch sử phong bế trong ký ức xa xôi thăm thẳm, tuy nhiên những ký ức này sẽ không thật sự mất đi. Tôi trân trọng Pháp duyên trân quý vô tỷ với các đồng tu, chúng ta cần phải giúp đỡ các đồng tu đã mê mờ trong nhân thế. Họ đã từng cùng chúng ta trải qua vô số các tháng năm gian khổ, sinh tử có nhau. Chúng ta không thể bỏ rơi họ trong thời khắc lịch sử như thế này. Chúng ta hãy cùng tay trong tay trở về nơi thiên quốc quê nhà tốt đẹp vô tỷ đó. Mãi mãi sống trong thế giới huy hoàng thần thánh mãi mãi.
Tác giả: Thiện Dũng
chanhkien.org