Vaccine HPV, Gardasil, được các nhà nghiên cứu Ian Frazer và Jian Zhou tại Đại học Queensland (Úc) phát minh vào năm 2006. Tại Úc, nó được triển khai cho tất cả học sinh từ 12-13 tuổi như một phần trong chương trình tiêm chủng của đất nước. (Getty Images)
Úc đã đặt mục tiêu đầy tham vọng là trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới loại bỏ bệnh ung thư cổ tử cung vào năm 2028, sớm hơn 7 năm so với kế hoạch, Đảng Lao động nước này tuyên bố.
Chiến lược này liên quan đến việc tăng cường triển khai vaccine ngừa virus u nhú ở người, hay còn gọi là HPV, và các biện pháp sàng lọc cổ tử cung.
Các chuyên gia y tế coi HPV là một bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể gây ra mụn cóc sinh dục, thay đổi tế bào và ung thư. Được cho là dấu hiệu báo trước đáng kể của bệnh ung thư cổ tử cung, họ ủng hộ vaccine HPV là yếu tố then chốt trong việc ngăn ngừa căn bệnh này.
Điều đó cho thấy, nhiễm trùng HPV xảy ra phổ biến ở phụ nữ và hầu hết họ đều mắc bệnh này vào một thời điểm nào đó trong đời. Hệ thống miễn dịch của hầu hết phụ nữ sẽ loại bỏ nhiễm trùng HPV một cách âm thầm và khiến nó không phát triển thành ung thư.
Tuy nhiên, một số loại HPV tồn tại dai dẳng và có thể biến đổi thành tế bào tiền ung thư, đó là lý do tại sao nên sàng lọc.
Chính phủ Úc đã đầu tư 31,6 triệu USD để đẩy nhanh nỗ lực diệt trừ căn bệnh này.
Hiện tại, 90% bé gái được nhắm mục tiêu chủng ngừa HPV trước khi bước sang tuổi 15. Chương trình này hiện được mở rộng cho cả các bé trai nhằm giảm nguy cơ mụn cóc sinh dục và các tổn thương tiền ung thư do HPV gây ra.
Hơn nữa, những người từ 25-74 tuổi sẽ được sàng lọc 5 năm một lần thay vì chỉ hai lần trong đời.
Vì vaccine HPV không thể cung cấp khả năng bảo vệ chắc chắn chống lại tất cả các loại virus, nên xét nghiệm sàng lọc cổ tử cung được khuyên nên thực hiện 5 năm một lần, ngay cả đối với những người đã được tiêm vaccine.
Trợ lý Bộ trưởng Y tế Úc Ged Kearney bày tỏ tầm quan trọng của cam kết, nói rằng: “Úc luôn nỗ lực hết mình khi đề cập đến ung thư cổ tử cung và hiện chúng tôi đang trên đường trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới loại bỏ căn bệnh chết người này”.
“Chương trình sàng lọc cổ tử cung quốc gia và chương trình tiêm chủng HPV của Úc đã đưa chúng tôi trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới đạt được cột mốc đó”.
Mối lo ngại về vaccine HPV
Tuy nhiên, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm, Tiến sĩ Dong Yuhong đã đặt ra câu hỏi về độ tin cậy của những tuyên bố được đưa ra đối với vaccine HPV.
Trong loạt bài độc quyền về vaccine HPV trên The Epoch Times, bà nói: “Trước hết, thời gian từ khi nhiễm virus HPV đến khi tiến triển thành ung thư cổ tử cung là rất dài (thường lên tới 20 năm), nên việc thực hiện một nghiên cứu ngẫu nhiên về vaccine HPV dài hạn có kiểm soát là một thách thức lớn. Các tuyên bố đưa ra đối với vaccine HPV thường chỉ dựa trên các nghiên cứu quan sát”.
Đáng chú ý, nhiều nghiên cứu đa quốc gia về ung thư cổ tử cung đã tiết lộ mối liên hệ mạnh mẽ và nhất quán giữa độ tuổi sinh hoạt tình dục lần đầu của phụ nữ và nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung.
Theo đó, quan hệ tình dục lần đầu vào hoặc trước 16 tuổi, hoặc từ 17-20 tuổi làm tăng nguy cơ phát triển ung thư cổ tử cung xâm lấn lần lượt gấp 2,3 và 1,8 lần so với phụ nữ có quan hệ tình dục lần đầu khi ngoài 21 tuổi.
Thuốc tránh thai đường uống cũng được phát hiện là làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư cổ tử cung.
Nữ tiến sĩ nói rằng nhiều nghiên cứu không tính đến những yếu tố nổi bật này, làm giảm giá trị của kết luận của họ.
Bà cho biết: “Mặc dù một số nghiên cứu có thể đã cố gắng tính đến các yếu tố như độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu hoặc độ tuổi mang thai lần đầu, nhưng việc theo dõi và kiểm soát số lượng bạn tình trong một nghiên cứu vaccine HPV dài hạn có thể là một thách thức”.
Điều này đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ đối tượng nghiên cứu và hành vi tình dục của họ trong một khoảng thời gian dài.
Tiến sĩ Dong nói thêm: “Điều đáng lưu ý là, tính đến ngày nay, vẫn còn thiếu các nghiên cứu thành công trong việc giám sát và kiểm soát các hoạt động tình dục trong thiết kế nghiên cứu của họ”.
Nuôi dưỡng cơ chế sẵn có của thiên nhiên
Ủng hộ cách tiếp cận toàn diện, Tiến sĩ Dong nhấn mạnh tính hiệu quả của hệ miễn dịch tự nhiên và xem đó là biện pháp bảo vệ tối ưu chống lại virus mà không có tác dụng phụ.
Bà nói: “Bất kể ai đó có được tiêm vaccine HPV hay không, khả năng miễn dịch tự nhiên vẫn cần thiết để bảo vệ chúng ta và chống lại virus dai dẳng. Ăn thực phẩm lành mạnh, duy trì giấc ngủ chất lượng và cân nặng hợp lý, tập thể dục, các chương trình chánh niệm, thiền định và các kỹ thuật giảm căng thẳng đều hữu ích cho khả năng miễn dịch của chúng ta”.
Bà nhấn mạnh rằng trong vòng hai năm, khoảng 80-90% trường hợp nhiễm trùng HPV thường tự khỏi.
Tiến sĩ Dong nói thêm: “Khả năng miễn dịch tự nhiên không chỉ chống lại virus mà còn có khả năng chống lại bệnh ung thư. Khả năng miễn dịch của chúng ta rất năng động, tháo vát và có thể chống lại nhiều biến thể của virus, đặc biệt là khi virus liên tục thay đổi sau khi tiêm vaccine HPV”.
Vaccine HPV, Gardasil, được các nhà nghiên cứu Ian Frazer và Jian Zhou tại Đại học Queensland (Úc) phát minh vào năm 2006. Tại Úc, nó được triển khai cho tất cả học sinh từ 12-13 tuổi như một phần trong chương trình tiêm chủng của đất nước.
Theo Jesse Zhang – The Epoch Times
Bảo Vy biên dịch
NTD Việt Nam