Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Nguyên Văn Chữ Hán và Chú âm
大(ㄉㄚˋ) 学(ㄒㄩㄝˊ) 首(ㄕㄡˇ) 重(ㄓㄨㄥˋ) 夫(ㄈㄨˊ) 明(ㄇㄧㄥˊ) 新(ㄒㄧㄣ),
小(ㄒㄧㄠˇ) 子(ㄗ˙) 莫(ㄇㄛˋ) 先(ㄒㄧㄢ) 于(ㄩˊ) 应(ㄧㄥˋ) 对(ㄉㄨㄟˋ)。
其(ㄑㄧˊ) 容(ㄖㄨㄥˊ) 固(ㄍㄨˋ) 宜(ㄧˊ) 有(ㄧㄡˇ) 度(ㄉㄨˋ),
出(ㄔㄨ) 言(ㄧㄢˊ) 尤(ㄧㄡˊ) 贵(ㄍㄨㄟˋ) 有(ㄧㄡˇ) 章(ㄓㄤ)。
智(ㄓˋ) 欲(ㄩˋ) 圆(ㄩㄢˊ) 而(ㄦˊ) 行(ㄒㄧㄥˊ) 欲(ㄩˋ) 方(ㄈㄤ),
胆(ㄉㄢˇ) 欲(ㄩˋ) 大(ㄉㄚˋ) 而(ㄦˊ) 心(ㄒㄧㄣ) 欲(ㄩˋ) 小(ㄒㄧㄠˇ)。
Bính âm
大(Dà) 学(xué) 首(shǒu) 重(zhòng) 夫(fú) 明(míng) 新(xīn),
小(xiǎo) 子(zi) 莫(mò) 先(xiān) 于(yú) 应(yìng) 对(duì)。
其(Qí) 容(róng) 固(gù) 宜(yí) 有(yǒu) 度(dù),
出(chū) 言(yán) 尤(yóu) 贵(guì) 有(yǒu) 章(zhāng)。
智(Zhì) 欲(yù) 圆(yuán) 而(ér) 行(xíng) 欲(yù) 方(fāng),
胆(dǎn) 欲(yù) 大(dà) 而(ér) 心(xīn) 欲(yù) 小(xiǎo)。
Âm Hán Việt
Đại học thủ trọng phù minh tân,
tiểu tử mạc tiên ư ứng đối.
Kỳ dung cố nghi hữu độ,
xuất ngôn vưu quý hữu chương.
Trí dục viên nhi hành dục phương,
đảm dục đại nhi tâm dục tiểu.
Giải nghĩa từ ngữ
(1) 大学 (Đại học): Tên sách. Vốn là một chương trong sách “Lễ Ký”, sau Chu Hy thời nhà Tống gọi nó cùng với những sách như “Luận Ngữ” của Khổng Tử v.v. là “Tứ Thư”.
(2) 首 (Thủ): Trước tiên, đầu tiên.
(3) 重 (Trọng): Coi trọng, chú trọng.
(4) 明 (Minh): tức là làm sáng tỏ cái đức hạnh, phát huy đức tính sáng ngời vốn có. Từ “minh” thứ nhất là động từ, chỉ sự phát huy, đề cao và nổi bật rõ ràng. Câu đầu trong sách “Đại Học” nói: “Đại học chi Đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện.” (tạm dịch: Đạo đại học là ở chỗ làm sáng tỏ đức sáng, là ở chỗ gần gũi dân chúng để giáo dưỡng họ, là ở chỗ khiến cho người ta ở vào cõi chí thiện)
(5) 新 (Tân): ngày mới, mỗi ngày càng mới. Sách “Đại học” viết: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân.” (nếu một ngày đổi mới, thì nên duy trì mỗi ngày một mới, mới rồi lại phải mới hơn nữa).
(6) 小子 Tiểu tử: Đứa trẻ nhỏ.
(7) 應對 Ứng đối: Đối đáp, trả lời.
(8) 容 Dung: Tư thái dung mạo.
(9) 固 (Cố): Tất nhiên, dĩ nhiên.
(10) 宜 (Nghi): Nên, phải, cần phải, thích nghi.
(11) 有度 (Hữu độ): Mức độ vừa phải, phù hợp.
(12) 出言 (Xuất ngôn): Nói ra, nói chuyện.
(13) 尤貴 (Vưu quý): Đặc biệt chú trọng. Nổi bật, đặc biệt. Quý, coi trọng.
(14) 章 (Chương): trật tự, mạch lạc.
(15) 智 (Trí): Trí tuệ, thông minh, sáng suốt.
(16) 欲 (Dục): Muốn có, yêu cầu, đòi hỏi.
(17) 圆 Viên: Viên dung.
(18) 行 Hành: Làm, hành vi, hành động.
(19) 方 Phương: Ngay ngắn, vuông vắn, chính trực, đúng đắn.
Bản dịch tham khảo
Điều đầu tiên mà cuốn sách “Đại học” chú trọng đến là mỗi người nên phát huy mỹ đức vốn có của mình, ngày ngày đổi mới, mỗi ngày đều có tiến bộ; trẻ em trước tiên phải học cách nói năng và lễ phép trong việc đối ứng tiến thoái (đối đáp tiến lui). Tất nhiên dáng vẻ cử chỉ của mọi người phải có mức độ vừa phải, phù hợp, lời nói đặc biệt chú trọng đến sự mạch lạc. Trí tuệ phải viên dung và hành vi phải đoan chính, dũng khí phải lớn nhưng suy nghĩ phải tỉ mỉ kỹ càng.
Đọc sách luận bút
Sách “Đại Học” do Tăng Tử viết, giảng việc lấy hoằng dương nhân đức làm gốc, chỉ khi đó mới có thể đạt được đạo lý từ tu thân tề gia đến trị quốc bình thiên hạ. Nếu như nói trọng điểm của bậc tiểu học là giảng về các sinh hoạt thường ngày, cách chung sống hòa hợp như thế nào với cha mẹ và các bậc trưởng bối cũng như anh chị em trong gia đình, người thân, bạn bè, mục đích là học và lĩnh hội được cách ứng xử bằng lời ăn tiếng nói và các phép tắc trong đi đứng cơ bản nhất, hình thành một loại thường thức sinh hoạt và tập quán tốt, có nghĩa là khi gặp mọi người, biết nói chuyện và hành động như thế nào, không đến mức xuất hiện sai lầm thất lễ, cùng với mọi người ở các vai vế và địa vị khác nhau, trong các trường hợp khác nhau đều biết ứng xử, tiếp đãi và chung sống như thế nào để luôn luôn không thất lễ, vậy thì bước tiếp theo là phải học tập có trọng điểm và hiểu những đạo lý cơ bản vì sao phải ứng xử với người khác như thế.
Đạo lý căn bản này là nguyên tắc hay mục đích của mọi nghi thức xã giao, mọi tiến thoái và hành vi ứng xử khi tiếp xúc giữa người với người. Nguyên tắc này chính là Nhân Đức, cũng chính là Đạo Nghĩa, hợp lại thì chính là Đạo Đức mà người ta thường gọi. Cũng chính là Minh Đức mà tác phẩm “Đại học” của Tăng Tử đã giải thích, là nền tảng của việc trị quốc. Con người khi lớn lên cần phải hiểu được mục tiêu và chí hướng lớn nhất của đời người chính là phải dùng Đức để trị lý thiên hạ, giáo hóa thiên hạ, làm cho tất cả mọi người đều hiểu được ý nghĩa của cuộc sống thì có thể đạt đến cảnh giới chí Thiện (tốt đẹp cùng cực). Xuất phát điểm và mục tiêu của việc làm người đều là chí Thiện.
Bậc tiểu học là giáo dục khai sáng cho trẻ con, trong đó các tác phẩm nổi tiếng nhất là “Tam tự kinh” và “Đệ tử quy”, bộ sách này cũng như các tác phẩm kinh điển khác dành cho trẻ em vỡ lòng thì điều giảng trước tiên là cái Thiện mà các em có thể hiểu được, lấy đó làm nền tảng, nhưng không thể giảng sâu vào đạo lý to lớn, cho nên trọng điểm chủ yếu là giảng về các mối quan hệ nhân luân thường ngày, ví dụ như cách cư xử với mọi người, ăn nói đi lại ra sao, giữ đúng chuẩn mực về phép xã giao như thế nào, sau đó tạo dựng tri thức cơ bản để tương lai đọc các thư tịch cổ, học chữ và cách đặt câu, hiểu rõ nhiều điển cố trong lịch sử về các bài học làm người. Chuẩn bị cho tương lai học tập đạo đức một cách hệ thống.
Nghĩa là sau này khi lớn lên, các hành vi cử chỉ và ngôn ngữ, cú pháp học ở tiểu học không dừng ở mức biết làm như thế nào mà không biết đạo lý tại sao lại làm vậy giống như khi còn nhỏ nữa, người xưa thường nói biết nó vậy nhưng không hiểu vì sao, đó chính là chỉ ý nghĩa này. Khi đã trưởng thành, cần phải học một cách có hệ thống những đạo lý lớn đằng sau các hành vi quy phạm và các kỹ năng kiến thức. Như thế mới không bị giáo điều cổ hủ, khư khư giữ lễ nghi bề ngoài, nếu không phân biệt rõ đâu là gốc đâu là ngọn, đâu là chủ yếu đâu là thứ yếu, thì sẽ trở thành những văn nhân cổ hủ không có trí tuệ viên dung.
Ví dụ như câu “nam nữ thụ thụ bất thân” là quy phạm cư xử thông thường. Tuy nhiên, nếu ở trong một tình huống đặc biệt, chẳng hạn như vô tình gặp một người phụ nữ bị đuối nước khi qua sông. Lúc đó chỉ có một người đàn ông hiện diện, ngoài ra không ai có thể cứu cô ấy. Đây là tình huống khẩn cấp vì cô ấy đang giữa dòng nước, do đó không thể hành sự theo cách thông thường. Nên biết là các quy tắc xã giao của xã hội, sau cùng là vì mối quan hệ giữa con người, các gia tộc để có sự tôn trọng lẫn nhau, không để xảy ra bất bình, oán hận, hiểu lầm, tránh xung đột, mâu thuẫn, có như thế mới làm cho xã hội hài hòa. Nói tóm lại là làm cho người ta biết cách yêu thương người khác, có được một giới hạn căn bản thấp nhất. Tuy nhiên nếu chỉ tuân theo các quy tắc xã giao, thấy chết mà không cứu, nó sẽ biến thành chướng ngại trên đường học Đạo, tổn hại đến nguyên tắc căn bản là hành Thiện. Do đó trong trường hợp đặc biệt này, không thể cứ cố chấp giữ lấy các quy phạm cố định, mà cứu mạng người là quan trọng nhất, cũng là hành động phù hợp nhất với nhân nghĩa và đạo đức.
Thêm ví dụ như câu “quân quân thần thần, phụ phụ tử tử” (Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con) là giảng về quy củ và bổn phận phải có trên dưới giữa vua tôi và cha con, bề tôi hay con cái cần biết tôn trọng quyết định và chấp hành mệnh lệnh của người có địa vị cao hơn, nhưng nếu làm vua hay làm cha mà có thiếu sót nghiêm trọng về đức hạnh, thì cần phải có đủ can đảm để can ngăn mệnh lệnh của người đó, không được tuân theo tuyệt đối, nếu không sẽ làm cho vua hay cha mình làm ra việc bất nghĩa, trái lại giống như là trợ Trụ vi ngược, không chỉ bản thân bất nghĩa, mà còn hãm hại quân vương hay phụ thân mình vào sự bất nghĩa. Nói cách khác, bất kỳ việc gì đều phải suy xét chắc chắn có phù hợp với đạo đức, có quang minh chính nghĩa hay không. Đây chính là đạo lý “chỉ ư chí Thiện” được giảng trong sách “Đại học”.
Đúng như người ta nói mọi việc đều có việc gấp gáp hay việc thong thả, khi có việc gấp nên tùy cơ ứng biến, không giáo điều cứng nhắc, tất cả đều suy xét từ cơ bản làm như thế nào mới là thiện đãi người khác một cách chân chính, mới là điều thích hợp nhất, thì làm như thế sẽ không giáo điều. Vì vậy đằng sau lễ nghi và quy định là đạo đức, không thể quên các khuôn phép lễ nghi đi đứng và chờ đợi người khác, mục đích ấy là để thực hiện sự giáo hóa đạo đức. Đây là căn bản của việc tuân thủ nghi lễ. Nhưng phải chú ý rằng không thể lấy đây làm cái cớ để phủ nhận các lễ nghi cơ bản trong những tình huống thông thường, con người cần có một chuẩn mực cơ bản, nếu không, trật tự xã hội sẽ trở nên rất hỗn loạn. Mọi thứ đều phải có mức độ. Bất cứ điều gì cũng không được đi đến cực đoan.
Cho nên ở bài học này giảng rõ rằng sách Đại Học trước hết coi trọng đến cái mới, tức là giảng rõ rằng việc làm cho người ta hiểu rõ đức hạnh là coi trọng hàng đầu, tu chính bản thân mỗi ngày, sau khi có lĩnh ngộ những tiến bộ mới mỗi ngày, liền nhanh chóng quay lại việc dạy bảo những gì trẻ em cần làm, trước tiên trẻ em phải học cách ăn nói và lễ tiết của việc ứng xử tiến lui. Phong thái cử chỉ của con người nên vừa phải có mức độ, lời nói phải mạch lạc. Trí tuệ cần viên dung nhưng cũng đừng quên rằng hành vi phải nghiêm chỉnh, tài trí từ đầu đến cuối phải khởi tác dụng xoay quanh chính đạo, dũng khí cần phải lớn nhưng suy nghĩ cần phải tỉ mỉ chu toàn. Không được lỗ mãng. Đó cũng chính là dũng cảm mà thận trọng, hữu dũng hữu mưu mới làm nên việc. Trông có vẻ như giảng về Trung Dung, nhưng trên thực tế là xoay quanh đạo đức làm căn bản và giảng làm thế nào để học tập một cách chính xác và ứng dụng đúng những lễ nghi và lời nói thông thường này, để thiện dụng tài trí và dũng khí.
Kể chuyện
Câu đầu tiên sách “Đại Học” viết: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” muốn đạt đến “chỉ ư chí thiện” điều trước tiên phải làm được là trình độ của “minh minh đức”, chữ “minh” đầu tiên nghĩa là làm sáng tỏ sau đó là hoằng dương, chữ “minh” thứ hai nghĩa là “Quang minh chính đại”, cho nên “minh minh đức” chính là làm cho mỹ đức trong sáng lương thiện của thiên tính con người có thể hoằng dương ra khắp nơi, và cách làm cho tính linh thiên phú tỏa sáng chính là tự soi xét trong lòng, mỗi ngày tự xét bản thân qua ba sự việc, thông qua tự soi xét lại bản thân để tìm ra khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm, không ngừng hướng nội tìm, không ngừng tu chính, trừ bỏ tâm chấp trước của bản thân, liên tục cho đến khi đạt đến cảnh giới chí thiện mới kết thúc.
Thời nhà Tống có một người tên là Triệu Khái, ngày nào cũng dùng phương pháp bỏ hạt đậu để xem xét hành vi được mất của mình. Ông chuẩn bị ba cái hộp và đặt chúng vào thư phòng, một hộp rỗng, một hộp đựng đậu nành và một hộp đựng đậu đen. Mỗi tối trước khi đi ngủ, Triệu Khái mở ba chiếc hộp này ra, cẩn thận nhớ lại lời nói và việc làm của mình trong cả ngày, nếu nói một câu đúng, làm một việc tốt hoặc có một ý tưởng tốt, sẽ lấy một hạt đậu nành bỏ vào hộp trống; nếu nói lời sai gây chuyện thị phi, làm điều xấu, hoặc có ý nghĩ xấu thì lấy một hạt đậu đen bỏ vào hộp trống. Dựa vào số lượng nhiều hay ít của những hạt đậu đen và đậu nành trong hộp trống để nhắc nhở bản thân sửa chữa lỗi lầm. Lúc đầu số lượng đậu đen nhiều hơn đậu nành, nhưng dần dần đậu nành càng ngày càng nhiều, đậu đen càng ngày càng ít, việc tu dưỡng đạo đức của ông càng ngày càng cao.
Khổng Tử nói: “Kiến hiền tư tề yên, bất kiến hiền nhi nội tự tỉnh dã” (Nhìn thấy người có tài thì học tập họ và hy vọng được ngang hàng với họ, nhìn thấy người không có đức hạnh thì nên tự soi xét lại lỗi lầm của mình). “Tư tề” chính là muốn hướng đến người hiền tài để noi theo, “nội tự tỉnh” chính là không ngừng hướng nội tìm những khuyết điểm của bản thân, như thế có thể liên tục tiến bộ, đạt đến cảnh giới viên mãn của Chí Thiện.
Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa “ Ấu Học Quỳnh Lâm” của Zhengjian.org
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248609
Ngày đăng: 24-10-2023
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.
ChanhKien.org