Protein gai của coronavirus (màu đỏ) làm trung gian cho virus xâm nhập vào tế bào chủ. Nó liên kết với ACE 2 (màu xanh) và hợp nhất màng virus và vật chủ. (Juan Gaertner/Shutterstock)
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng protein gai của SARS-CoV-2 là một loại protein gây viêm, có độc tính cao, làm gián đoạn khả năng miễn dịch. Có một số phương pháp điều trị.
Sự hiện diện của protein gai có liên quan chặt chẽ đến các triệu chứng của hội chứng hậu vaccine và COVID kéo dài. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng protein gai thường hiện diện ở những bệnh nhân có triệu chứng, thậm chí có khi kéo dài tới vài tháng sau khi bị nhiễm trùng hoặc tiêm vaccine.
Số lượng các trường hợp bị COVID kéo dài và hậu vaccine đang gia tăng ở Hoa Kỳ, ngày càng trở nên là một vấn đề về chăm sóc sức khỏe.
Dữ liệu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) ước tính rằng khoảng 7% người Mỹ hiện đang trải qua các triệu chứng COVID kéo dài, tức là tới hơn 15 triệu người. Một số người bị COVID kéo dài có cảm giác suy nhược tới mức không thể đi làm. Những người bị các triệu chứng hậu vaccine cũng có báo cáo tương tự.
Hơn 880.000 trường hợp bị tác dụng phụ đã được báo cáo vào cơ sở dữ liệu của Hệ thống Báo cáo Tác dụng phụ Vaccine (VAERS) về các triệu chứng có thể xảy ra sau vaccine COVID.
Tuy nhiên, các nhà thống kê cho rằng số người mắc hội chứng hậu vaccine còn cao hơn nhiều.
Jessica Rose, nhà sinh học phân tử người Canada, đã ước tính hệ số báo cáo thấp là 31, như vậy, ước tính rằng hơn 27 triệu người Mỹ có thể đã gặp phải các tác dụng phụ sau vaccine.
Tiến sĩ Pierre Kory cho biết vào ngày 15 tháng 10 tại một hội nghị của Front Line COVID-19 Critical Care Alliance (FLCCC): “Số người bị tổn thương do vaccine là rất lớn”. Ông nói: “Con số rất lớn… họ không được chăm sóc đầy đủ, nhu cầu của họ không được đáp ứng”.
Tuy nhiên, nhiều bác sĩ đang tìm cách thay đổi tình trạng này. FLCCC đã đi đầu trong việc điều trị các triệu chứng của COVID-19, COVID kéo dài và hậu vaccine.
Chưa có nghiên cứu quy mô lớn nào được thực hiện về điều trị các triệu chứng hậu vaccine. Dựa trên các quan sát lâm sàng, phản hồi của bệnh nhân và nghiên cứu sâu rộng, FLCCC đã đưa ra các khuyến nghị về cập nhật điều trị.
Người đồng sáng lập FLCCC và Giám đốc khoa học, Tiến sĩ Paul Marik nói với The Epoch Times rằng các khuyến nghị luôn có thể thay đổi dựa trên phản hồi của bệnh nhân, cũng như nghiên cứu về một lựa chọn điều trị mới.
Tuy nhiên, để hiểu được các lựa chọn điều trị, trước tiên người ta cần hiểu protein gai gây ra tổn thương như thế nào.
Bệnh lý học của protein gai
Hội chứng Covid kéo dài và hậu vaccine có mức độ trùng lặp cao vì cả hai tình trạng này đều có liên quan đến sự hiện diện lâu dài của protein gai và các triệu chứng cũng thường giống nhau.
Marik chia sẻ tại hội nghị FLCCC: “Vấn đề cốt lõi của hội chứng sau vaccine là ‘rối loạn điều hòa miễn dịch’ mãn tính”.
Protein gai có thể gây viêm mãn tính. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng viêm có thể làm cho tế bào bị căng thẳng, tổn thương và thậm chí bị chết. Các tế bào tạo nên mô, các mô lại tạo thành cơ quan và các cơ quan là một phần của hệ thống sinh lý của cơ thể. Vì vậy, tổn thương do protein gai là một hội chứng toàn thân có tính hệ thống.
Protein gai kích hoạt tình trạng viêm mãn tính bằng cách gây rối loạn điều hòa miễn dịch. Các protein gai xâm nhập vào các tế bào miễn dịch, tắt các phản ứng miễn dịch bình thường và thay vào đó, nó kích hoạt các qui trình viêm.
Phản ứng miễn dịch bình thường của các tế bào miễn dịch khi bị nhiễm là giải phóng interferon type 1. Interferon type 1 truyền tín hiệu đến các tế bào miễn dịch khác để tăng cường khả năng phòng vệ chống lại virus. Nhưng protein gai làm suy giảm quá trình truyền tín hiệu này trong các tế bào bị nhiễm, do đó các tế bào lành sẽ cũng bị nhiễm bệnh và bị tổn thương bởi protein gai khi tình trạng lây nhiễm vượt quá tầm kiểm soát.
Marik nói rằng một khía cạnh quan trọng của tổn thương do protein gai kéo dài, là nó ức chế quá trình tự thực, là phương pháp tái chế các tế bào bị hư tổn của cơ thể. Thông thường, khi tế bào đã bị nhiễm virus, tế bào sẽ cố gắng phá vỡ các hạt virus này và loại bỏ chúng dưới dạng chất thải.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về virus SARS-CoV-2 đã chỉ ra rằng quá trình tự thực suy giảm ở những bệnh nhân bị nhiễm bệnh, với sự hiện diện kéo dài của protein gai sau lần tiếp xúc đầu tiên.
Marik cho biết: “Protein gai là một loại protein thực sự có hại. Nó tắt quá trình tự thực bào, và đó là lý do tại sao nó có thể tồn tại trong tế bào lâu dài đến như vậy”.
Rối loạn chức năng tế bào miễn dịch
Rối loạn chức năng miễn dịch do protein gai, không chỉ gây viêm mà còn có thể góp phần làm tăng sinh ung thư và gây ra tình trạng tự miễn.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng protein gai có thể làm giảm số lượng và làm cạn kiệt hoạt động của các tế bào T cũng như các tế bào tiêu diệt tự nhiên (Natural Killers – NK). Hai loại tế bào này chịu trách nhiệm tiêu diệt các tế bào bị nhiễm và tế bào ung thư. Do đó, suy giảm miễn dịch tế bào (tế bào T và NK), sẽ làm cho việc loại bỏ những tế bào bị nhiễm protein gai trở nên chậm trễ.
Những tổn hại bởi protein gai có thể dẫn đến sự hư hại của DNA, và các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng protein gai có thể làm suy giảm quá trình sửa chữa DNA. Những căng thẳng tâm lý và môi trường như tia cực tím, chất ô nhiễm, chất oxy hóa và nhiều yếu tố khác có thể thường xuyên gây hư hỏng DNA, đòi hỏi phải liên tục sửa chữa.
DNA bị hư hỏng đặt các tế bào trước nguy cơ trở thành ung thư và những tế bào này cần phải bị tiêu diệt để ngăn chặn sự hình thành ung thư. Tuy nhiên, sự suy giảm hoạt động của tế bào tiêu diệt tự nhiên và tế bào T, có thể dẫn đến sự tăng sinh không kiểm soát của các tế bào có tiềm năng gây ung thư đó.
Các rối loạn chức năng hậu vaccine khác cũng đã được báo cáo. Trong đó có các bệnh tự miễn.
Những bệnh này, có thể liên quan đến hiện tượng protein gai có mức độ bắt chước phân tử cao, nghĩa là các protein gai có nhiều vùng cấu trúc tương tự các vùng cấu trúc của các protein khác trong cơ thể con người.
Vì vậy, khi hệ miễn dịch tấn công protein gai, do sự tương đồng về cấu trúc nêu trên, các kháng thể cũng có thể tấn công protein và mô của chính cơ thể con người. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra hiện tượng này.
Protein gai gây ra hiện tương mệt mỏi
Protein gai cũng có liên quan đến rối loạn chức năng của ty thể. Thường được gọi là nhà máy năng lượng của tế bào, ty thể chịu trách nhiệm khai thác năng lượng từ đường mà chúng ta ăn vào.
Các tế bào thần kinh, dưới tác động của protein gai, đã cho thấy sẽ tạo ra nhiều gốc oxy phản ứng hơn. Đó là dấu hiệu của rối loạn chức năng ty thể, chỉ ra khả năng sản xuất năng lượng bị suy giảm.
Những người mắc hội chứng COVID kéo dài và hậu vaccine thường bị mệt mỏi mãn tính, sương mù não, không thể tập thể dục và yếu cơ. Những triệu chứng này cũng thường thấy ở những người bị rối loạn chức năng ty thể, cho thấy có thể có tồn tại mối liên hệ.
Protein gai gây tổn hại mạch máu và các cơ quan
Protein gai đã được chứng minh là đặc biệt gây hại cho các tế bào nội mạc mạch máu. Protein gai có thể liên kết với các thụ thể ACE2 và CD147 và kích hoạt các qui trình viêm.
Những thụ thể này đặc biệt có nhiều trong các tế bào mạch máu, tim, hệ thống miễn dịch, buồng trứng và nhiều khu vực khác. Do đó, protein gai có thể gây viêm và tổn thương mạch máu cùng các cơ quan tương ứng, dẫn đến tổn thương hệ thống trên toàn cơ thể.
Marik cho biết tổn thương do protein gai gần giống với một hội chứng toàn thân hơn là một căn bệnh.
“Đó không phải là một căn bệnh. Nó không phù hợp với mô hình truyền thống của một căn bệnh. Nó là một hội chứng ảnh hưởng đến từng cơ quan một… protein gai đi khắp mọi nơi … vì vậy đây là một căn bệnh đa hệ thống và nó không tuân theo mô hình truyền thống của một căn bệnh, tức là một triệu chứng tương ứng một chẩn đoán.
Phương pháp điều trị ban đầu của FLCCC
Vì các triệu chứng của COVID kéo dài và hậu vaccine đều có liên quan đến sự hiện diện của protein gai, do đó, các phương pháp điều trị ban đầu mà FLCCC khuyến nghị tập trung vào hai bước chính.
Bước đầu tiên là loại bỏ protein gai, bước thứ hai là giảm độc tính của nó.
Sau đó, cơ thể sẽ tự chữa lành và đây là “mục tiêu điều trị chính”, GS. Marik nói.
Hầu hết các phương pháp điều trị ban đầu đều tập trung vào việc loại bỏ protein gai bằng cách kích hoạt lại quá trình tự thực bào – một quá trình bị làm cho suy yếu bởi protein gai.
Thực hiện tốt lối sống có thể thúc đẩy quá trình tự thực bào thông qua việc nhịn ăn ngắt quãng và điều trị quang sinh học. Quá trình điều trị quang sinh học có thể được thực hiện bằng cách phơi mình dưới ánh nắng mặt trời, vì ánh sáng mặt trời có chứa các tia hồng ngoại giúp tăng khả năng tự thực của tế bào.
Nhịn ăn ngắt quãng có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe bao gồm cải thiện độ nhạy insulin, giảm cân, giảm viêm, tự miễn, và nhiều nữa.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc nhịn ăn ngắt quãng không được khuyến khích cho những người dưới 18 tuổi vì nó có thể ngăn cản sự phát triển. Phụ nữ mang thai và cho con bú cũng không được khuyến khích nhịn ăn ngắt quãng. Những người mắc bệnh tiểu đường và bệnh thận cũng nên tư vấn với bác sĩ của họ trước khi cân nhắc áp dụng nhịn ăn ngắt quãng.
Trong khi nhịn ăn ngắt quãng có thể không phù hợp với tất cả mọi người, thì vẫn có những lựa chọn điều trị khác có thể thúc đẩy quá trình tự thực bào và giảm độc tính của protein gai.
Ivermectin
Ivermectin đã được FLCCC và nhiều bác sĩ khuyến khích sử dụng để điều trị COVID, Covid kéo dài và hội chứng hậu vaccine vì giá thành rẻ, dễ tiếp cận, có độ an toàn và tỷ lệ đáp ứng cao.
Loại thuốc này có động lực cao và cũng đã được ghi nhận là có nhiều chức năng khác nhau: kháng virus, chống ký sinh trùng, chống viêm và cũng tăng cường quá trình tự thực bào.
Ivermectin có thể giúp loại bỏ protein gai. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng Ivermectin có ái lực cao hơn với protein gai, liên kết với các vùng cấu trúc của nó, vô hiệu hóa và cố định một cách hiệu quả để tiêu diệt.
Ivermectin cũng trực tiếp đối kháng các quá trình viêm được kích hoạt bởi protein gai, gồm cả con đường NF-KB kích hoạt các cytokine gây viêm và thụ thể toll-like 4.
Các bác sĩ của FLCCC lý giải rằng ivermectin và việc nhịn ăn gián đoạn có thể “hiệp đồng” để loại bỏ protein gai khỏi cơ thể. Họ cũng khuyên nên dùng ivermectin cùng hoặc ngay sau bữa ăn.
Ivermectin cũng có thể liên kết với ACE2 và CD147, nhờ đó ngăn chặn protein gai xâm nhập và gây viêm trong các tế bào có trình diện các thụ thể này trên màng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ivermectin có thể duy trì năng lượng do ty thể tạo ra ngay cả trong điều kiện oxy thấp.
Kory cho biết khoảng 70 đến 90% bệnh nhân mắc hội chứng hậu vaccine có đáp ứng với thuốc, thường là trong vòng 10 ngày.
Marik cho biết: “Bệnh nhân có thể được phân loại là người có đáp ứng với ivermectin hoặc người không đáp ứng… những người không đáp ứng—[thực sự] là một nhóm bệnh nhân khó điều trị hơn”.
Những bệnh nhân không đáp ứng—thường sau 4 đến 6 tuần điều trị—được khuyến nghị tiếp tục điều trị tích cực hơn.
Khi dùng quá liều, ivermectin có thể gây lú lẫn, mất phương hướng và thậm chí có thể tử vong. Tuy nhiên, thuốc có độ an toàn cao khi sử dụng với liều lượng hợp lý. Có rất ít tài liệu về việc sử dụng nó ở phụ nữ mang thai nên FLCCC cảnh báo không nên sử dụng nó trong thời kỳ mang thai.
Tiến sĩ Satoshi Ohmura, người phát hiện ra ivermectin, đã viết trong một nghiên cứu mà ông là đồng tác giả: “Ivermectin liên tục được chứng minh là an toàn một cách đáng kinh ngạc đối với con người”.
“Thật vậy, đây là một loại thuốc an toàn, ít tác dụng phụ đến mức có thể được sử dụng bởi những người không phải là nhân viên y tế và thậm chí cả những người mù chữ ở các cộng đồng nông thôn xa xôi, miễn là họ đã được đào tạo những điều phù hợp và rất cơ bản”.
Naltrexone liều thấp
Naltrexone liều thấp (LDN) gần đây đã được đưa tin như là một lựa chọn để điều trị COVID kéo dài.
Marik nói: “Chúng tôi đã sử dụng nó trong nhiều tháng. “Naltrexone liều thấp là một loại thuốc chống viêm rất mạnh. Nó đã được sử dụng trong nhiều bệnh viêm mãn tính.”
Về mặt lâm sàng, các bác sĩ FLCCC đã nhận thấy nhiều triệu chứng của bệnh nhân được cải thiện sau khi điều trị bằng LDN, mặc dù có thể mất vài tháng mới thấy rõ lợi ích.
Naltrexone thông thường được sử dụng để ngăn ngừa quá liều ở người sử dụng ma tuý. Tuy nhiên, khi giảm xuống khoảng 1/10 nồng độ bình thường, xuống còn 1 mg đến 4,5 mg LDN, cơ chế của thuốc sẽ thay đổi đáng kể.
LDN có tác dụng chống viêm; các nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể chặn các thụ thể viêm toll-like, giảm sản xuất các cytokine gây viêm và chặn các chuỗi viêm dây chuyền.
LDN có tác dụng cân bằng hoạt động giữa các cytokine loại Th1 và Th2.
Các cytokine loại Th1 có xu hướng tạo ra phản ứng tiền viêm để tiêu diệt ký sinh trùng nội bào và thúc đẩy các hoạt động tự miễn. Các cytokine loại Th2 thường có nhiều hoạt động chống viêm hơn và có thể chống lại hoạt động của các cytokine Th1.
LDN điều chỉnh có chọn lọc sự cân bằng này bằng cách giảm hoạt động của Th1 và tăng cường hoạt động của cytokine Th2.
Trên lâm sàng, LDN đã được chứng minh là có hiệu quả chống lại các triệu chứng thần kinh sau COVID và sau vaccine. Nó đã được FLCCC liệt kê là có hiệu quả chống đau thần kinh, sương mù não, mệt mỏi, liệt thần kinh mặt (Bell’’s Palsy) và dị cảm ở mặt.
Điều này là do LDN cũng làm giảm tình trạng viêm thần kinh. Nó có tác dụng bảo vệ thần kinh, có thể vượt qua hàng rào máu não và làm giảm các hoạt động viêm của microglia, loại tế bào có chức năng miễn dịch trong não.
Resveratrol
Resveratrol là một chất dinh dưỡng thường được tìm thấy trong trái cây. Nó có thể được tìm thấy trong đậu phộng, hạt dẻ cười, nho, rượu vang đỏ và trắng, quả việt quất (blueberries), quả nam việt quất (cranberries), thậm chí cả trong ca cao và sô cô la đen.
Nó có mặt trong các chất bổ sung, mặc dù nhìn chung khả dụng sinh học của resveratrol trong đó thấp. Do đó FLCCC khuyến nghị nên dùng cùng với quercetin.
Resveratrol có tác dụng chống viêm và chống oxy hóa. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư một cách chọn lọc. Nó kích hoạt các quá trình sửa chữa DNA và do đó có thể làm giảm căng thẳng tế bào và ngăn ngừa sự hình thành các tế bào có tính ung thư.
Trong các tế bào bị căng thẳng, resveratrol có thể làm giảm các gốc oxy hóa hoạt động do ty thể tạo ra và thúc đẩy quá trình tự thực. Trong các nghiên cứu trên ruồi giấm và giun tròn, việc sử dụng resveratrol đã làm tăng tuổi thọ của chúng, cho thấy đặc tính chống lão hóa và kéo dài tuổi thọ của phân tử này.
Aspirin liều thấp
Tương tự như ivermectin, aspirin là một loại thuốc đã được phát hiện là có nhiều mặt tác dụng khác nhau đối với sức khỏe.
Aspirin có tác dụng chống viêm và chống đông máu. Do đó, thuốc làm giảm nguy cơ hình thành cục máu đông vi thể trong mạch máu. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó cũng có thể làm giảm viêm, giảm stress oxy hóa và bảo vệ thần kinh.
Suy giảm nhận thức là lời phàn nàn chính của nhiều người mắc hội chứng hậu vaccine COVID. Triệu chứng bao gồm sương mù não và đau thần kinh ngoại biên.
Các nghiên cứu trên bệnh nhân Alzheimer đã chỉ ra rằng sử dụng aspirin có thể làm chậm lại quá trình suy giảm nhận thức, mặc dù kết quả còn mâu thuẫn giữa các nghiên cứu khác nhau.
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy những con chuột được cho dùng aspirin có mức độ suy giảm nhận thức nhẹ hơn. Các nghiên cứu trên chuột bị tổn thương dây thần kinh cho thấy aspirin cũng có thể bảo vệ thần kinh do bản chất chống viêm tự nhiên của nó.
Việc sử dụng aspirin có thể gây ra tác dụng phụ trong thai kỳ ví dụ như chảy máu.
Melatonin
Melatonin là một loại hormone được sản xuất bởi tuyến tùng để thúc đẩy giấc ngủ an tĩnh. Nó có cả đặc tính chống viêm và chống oxy hóa.
Trong tế bào, melatonin thúc đẩy sức khỏe của ty thể bằng cách giảm các gốc oxy hoạt động. Bởi vì ty thể cần sử dụng nhiều oxy nên khi nó bị tác động căng thẳng từ các chất độc môi trường như bức xạ hoặc protein gai, nó có thể tạo ra các gốc oxy phản ứng.
Melatonin, vì là một chất chống oxy hóa, do đó có thể ngăn ngừa các tổn thương oxy hóa. Các nghiên cứu cho thấy nó cũng ngăn chặn sự rò rỉ điện tử từ ty thể và do đó tối đa hóa được việc sản xuất năng lượng.
Nó cũng thúc đẩy tự thực bào bằng cách bỏ chặn quá trình này, giúp tế bào phá vỡ các protein gai và tăng cường loại bỏ chúng đi.
Do đặc tính chống oxy hóa, melatonin sửa chữa DNA bị hư hỏng do các gốc tự do. Melatonin và các chất chuyển hóa của nó cũng kích hoạt các gen hỗ trợ sửa chữa DNA và ngăn chặn hoạt động của các gen có thể gây hủy hoại DNA.
Melatonin cũng có đặc tính chống ung thư. Các nghiên cứu trên động vật về melatonin đã chỉ ra rằng những động vật được cho sử dụng melatonin có tỷ lệ tạo khối u thấp hơn.
Melatonin cũng đã được FLCCC khuyến nghị trong điều trị chứng ù tai, một triệu chứng hậu vaccine và COVID kéo dài. Triệu chứng chính là ù tai và có thể gây mất ngủ nếu nghiêm trọng. Melatonin có thể giúp giảm tiếng ù và giúp mọi người có được giấc ngủ ngon.
Sự khác biệt giữa hội chứng COVID kéo dài và hội chứng hậu vaccine
Cả hội chứng COVID kéo dài và hậu vaccine đều được thúc đẩy bởi lượng lớn protein gai và những tổn thương do tiếp xúc với lượng protein gai này, do đó có mức độ chồng chéo cao trong điều trị.
Tuy nhiên, các bác sĩ nhận thấy có những khác biệt nhỏ trong một số biểu hiện lâm sàng giữa hai tình trạng này. Do đó FLCCC đã đưa ra các phương pháp điều trị ưu tiên khác nhau cho mỗi tình trạng.
Marik cho biết: “Có vẻ như khi bị tổn thương do vaccine bị thương, triệu chứng chủ yếu và cơ quan chiếm ưu thế là thần kinh”. Theo quan sát của ông, khoảng “hơn 80% bệnh nhân bị tổn thương do vaccine bị suy giảm thần kinh ở một mức độ nào đó”.
Marik cho biết các triệu chứng hậu tiêm vaccine cũng có thể khó điều trị hơn so với Covid kéo dài và dai dẳng hơn. Với một số bệnh nhân, các triệu chứng suy nhược kéo dài tới gần hai năm.
Do đó, việc điều trị cho những người có triệu chứng hậu vaccine cần “tích cực hơn và nhắm vào não nhiều hơn”, Marik cho biết.
“Có vẻ như Covid kéo dài sẽ tiến triển tốt hơn theo thời gian. Marik nói: Mặc dù nó vẫn dai dẳng ở một số bệnh nhân, nhưng có vẻ như nó sẽ tự khỏi ở một mức độ nào đó. Còn vấn đề với tổn thương do vắc-xin là nó có thể tồn tại dai dẳng. Chúng tôi có những bệnh nhân đã tiêm vaccine vào tháng 12 năm 2020… [những người] vẫn đang bị tổn thương rất nặng”.
“Cả hai đều khá giống nhau, nhưng chúng tôi tập trung nhiều hơn vào tổn thương do vaccine vì đây là một căn bệnh khó điều trị hơn nhiều”.
Theo The Epoch Times
Quân Dương biên dịch
Tác giả: Marina Zhang
Marina Zhang: Là cây viết về sức khỏe của The Epoch Times, có trụ sở tại New York. Cô chủ yếu đưa tin về COVID-19 và hệ thống y tế, đồng thời có bằng cử nhân y sinh tại Đại học Melbourne. Địa chỉ liên hệ [email protected])
NTD Việt Nam