Close Menu
Khai mở
  • Trang Chủ
    • ĐỜI SỐNG
    • Suy Ngẫm
    • KHÁM PHÁ SINH MỆNH
    • CHÂN TƯỚNG
    • TÂM LINH & NHÂN QUẢ
    • TIÊN TRI & BÍ ẨN
    • TÌM HIỂU LUẬT
    • Blog
  • Tin Tức
  • Văn Hóa
  • Sức Khỏe
  • Thiên cổ anh hùng
  • Suy Ngẫm
  • Video
  • Podcast

Subscribe to Updates

Get the latest creative news from FooBar about art, design and business.

What's Hot

Văn hóa Thần truyền tạo Đôn Hoàng (Phần 4): Động Tàng Kinh | Văn hóa Thần truyền

19/02/2025

Cách giải thích độc đáo của người xưa về cây mạ non | Văn hóa truyền thống

15/02/2025

Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Dương Bát Muội trộm kim đao (2) | Văn hóa truyền thống

14/02/2025
Facebook X (Twitter) Instagram
Facebook X (Twitter) YouTube Flickr
Khai mởKhai mở
Đăng Ký Login
  • Trang Chủ
    • ĐỜI SỐNG
    • Suy Ngẫm
    • KHÁM PHÁ SINH MỆNH
    • CHÂN TƯỚNG
    • TÂM LINH & NHÂN QUẢ
    • TIÊN TRI & BÍ ẨN
    • TÌM HIỂU LUẬT
    • Blog
  • Tin Tức
  • Văn Hóa
  • Sức Khỏe
  • Thiên cổ anh hùng
  • Suy Ngẫm
  • Video
  • Podcast
Khai mở
Home»Tin Tức»Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (41) | Văn hóa truyền thống

Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (41) | Văn hóa truyền thống

khaimokhaimo05/06/202400
Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Tumblr WhatsApp VKontakte Email
Chia sẻ
Facebook Twitter LinkedIn Pinterest Email
Click Đọc
 
 

Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

[ChanhKien.org]

Nguyên văn:

曠遠綿邈,岩岫杳冥。

治本於農,務茲稼穡。

Bính âm:

曠(kuàng) 遠(yuǎn) 綿(mián) 邈(miǎo) ,

岩(yán) 岫(xiù) 杳(yǎo) 冥(míng) 。

治(zhì) 本(běn) 於(yú) 農(nóng) ,

務(wù) 茲(zī) 稼(jià) 穡(sè) 。

Chú âm:

曠﹙ㄎㄨㄤˋ﹚遠﹙ㄩㄢˇ﹚綿﹙ㄇㄧㄢˊ﹚邈 ﹙ㄇㄧㄠˇ﹚,

岩﹙ㄧㄢˊ﹚岫﹙ㄒㄧㄡˋ﹚杳﹙ㄧㄠˇ﹚冥﹙ㄇㄧㄥˊ﹚。

治﹙ㄓˋ﹚本﹙ㄅㄣˇ﹚於﹙ㄩˊ﹚農﹙ㄋㄨㄥˊ﹚,

務﹙ㄨˋ﹚茲﹙ㄗ﹚稼﹙ㄐㄧㄚˋ﹚穡﹙ㄙㄜˋ﹚。

Âm Hán Việt:

Khoáng viễn miên mạc,

Nham tụ diểu minh.

Trị bổn ô nông,

Vụ từ giá sắc.

Giải thích:

1. Nghĩa của chữ:

Khoáng (曠): rộng lớn.

Viễn (遠): cự ly rất dài.

Miên (綿): liên tiếp không ngừng.

Mạc (邈): xa xôi.

Nham (岩): vách núi cao chót vót.

Tụ (岫): hang động, sơn cốc.

Diểu (杳): sâu thẳm.

Minh (冥): tối tăm.

Ô (於): ở chỗ.

Nông (農): việc trồng trọt.

Vụ (務): chuyên tâm làm việc.

Từ (茲): ấy, này.

Giá (稼): cấy trồng.

Sắc (穡): gặt hái ngũ cốc.

2. Nghĩa của từ:

(1) Khoáng viễn (曠遠): rộng lớn vô biên.

(2) Miên mạc (綿邈): xa tít tắp.

(3) Nham tụ (岩岫): núi cao vực sâu.

(4) Diểu minh (杳冥): sâu thẳm tối tăm.

(5) Trị bổn (治本): biện pháp căn bản cai quản đất nước.

(6) Vụ từ (務茲): dốc sức vào.

(7) Giá sắc (稼穡): chỉ hết thảy việc nông nghiệp.

Lời dịch tham khảo:

Lãnh thổ quốc gia bao la hùng vĩ, cửa ải biên thành hiểm yếu, nối tiếp nhau không ngừng. Núi cao chót vót, vực sâu thăm thẳm, quả đúng là một dải giang sơn gấm vóc.

Để cai quản một đất nước như vậy, điều quan trọng nhất là phải làm cho người dân tránh được nguy cơ đói kém, vậy nên phát triển nông nghiệp là kế sách căn bản của quốc gia. Nhất định phải để người dân dốc sức vào công việc trồng trọt và gặt hái, như thế đất nước mới có thể hoà bình và ổn định lâu dài được.

Câu chuyện văn tự:

Diểu (杳): là một chữ hội ý, trong Tiểu triện viết là “ ”. Chữ Nhật (日) ở dưới chữ Mộc (木), biểu thị khi Mặt Trời lặn xuống dưới cái cây thì đêm tối sắp đến, bầu trời trở nên tối tăm, và cảnh vật xung quanh cũng dần dần không thấy rõ nữa, vậy nên nghĩa gốc của từ này là “u tối”. Màu tối là đêm tối cũng mang ý nghĩa là tối tăm. Nhìn không rõ cảnh vật thì ngoài lý do ánh sáng không đủ còn có nguyên nhân nữa là khoảng cách quá xa, vậy nên Diểu (杳) còn có thêm ý tứ là “xa xăm”.

Giá (稼): là chữ hình thanh hội ý, trong Tiểu triện viết là “”, có bộ Hoà (禾) biểu nghĩa và chữ Gia (家) biểu âm, nghĩa gốc là lúa chín, vậy nên Hoà (禾) biểu nghĩa. Bởi vì lúa chín là yếu phẩm cần thiết trong cuộc sống của người dân, người xưa coi nó như một phần của gia đình vậy, cho nên chữ Gia (家) biểu âm. Cũng có người cho rằng lúa non lớn đến một độ cao nhất định thì cần nhổ trồng, tức là cấy. Nghe giống với từ Giá (嫁: con gái xuất giá) vậy, hi vọng người con gái sau khi gả đến hoàn cảnh mới cũng có thể thuận lợi trưởng thành, vậy nên chữ Giá (嫁) tỉnh lược thành chữ Gia (家) biểu âm. Cả hai cách nói này đều có lý, bởi vì họ đều coi lúa non như người nhà của mình mà chăm sóc vậy, dùng tấm lòng trân trọng như thế mà làm việc cày cấy, nhất định sẽ có vụ mùa bội thu. Từ đây chúng ta cũng có thể thể hội được dụng tâm khi tạo chữ của người xưa rồi đó.

Suy ngẫm và thảo luận:

Trung Quốc từ xưa đã tự hào là lấy nông nghiệp lập quốc, từ những công cụ làm nông bằng đá được khai quật, đã chứng minh rằng trong thời kỳ đồ đá mới (khoảng 7000 đến 8000 năm trước) đã có trồng trọt. Đến thời nhà Thương, trong chữ Giáp cốt đã xuất hiện những chữ như: nông (農: nông nghiệp), sắc (嗇) (âm sắc; chỉ việc thu gom thóc lúa), quyến (甽) (âm khuyển; chỉ mương nước giữa ruộng), hoà (禾: lúa thóc), thử (黍: lúa nếp), tắc (稷: lúa tắc), mễ (米: gạo); càng minh chứng rằng vào thời nhà Thương các loại nông sản đã là nguồn tài nguyên sống quan trọng rồi. Đến thời nhà Chu, không những đã coi Thần Nông Hậu Tắc là thuỷ tổ, mà ngay cả nhà vua cũng phải làm việc cấy cày.

Chúng ta đều biết «Kinh Thi» là tập thơ lâu đời nhất của Trung Quốc, nó ghi chép lại tình hình xã hội trong khoảng 500 năm từ thời kỳ đầu nhà Chu cho đến giữa thời Xuân Thu bằng những ngôn từ giản dị, là một bộ tác phẩm văn học tả thực, trong «Kinh Thi» có rất nhiều những miêu tả về cuộc sống của người nông dân, như bài Đại Điền đã miêu tả tường tận về quá trình cày cấy. “Đại điền đa tắc, kí chủng kí giới, kí bị nãi sự, dĩ ngã đàm cử, thục tải nam mẫu”. (Tạm dịch: Ruộng lớn trồng được nhiều, lựa giống rồi sửa sang nông cụ, chuẩn bị hết xong xuôi, ta lấy cày sắc bén, đến bờ nam bắt đầu cày cấy). Ý nói là phải làm tốt công tác chuẩn bị rồi mới có thể xuống ruộng cày cấy. “Bá quyết bách cốc, kí đình thư thạc, tằng tôn thị nhã”. (Tạm dịch: Gieo mầm hạt ngũ cốc, vừa thẳng vừa khoẻ khoắn, khiến cháu con vui mừng). Miêu tả các loại ngũ cốc được trồng vừa thẳng lại vững chắc, nên nhận được tán thưởng. “Kí phương kí tạo, kí kiên kí hảo, bất lang bất hựu”. (Tạm dịch: Lúa trổ bông căng hạt, vừa chắc lại vừa tốt, ruộng không có cỏ dại). Ý nói hoa màu được trồng bắt đầu kết hạt, trong ruộng cũng chẳng còn cỏ dại, cho thấy người nông dân không những cần chăm sóc hoa màu, mà còn cần trừ bỏ cỏ dại, thì mới có thể mong đợi một mùa bội thu. “Khứ kỳ minh đằng, cập kỳ mâu tặc, vô hại ngã điền trĩ, điền tổ hữu thần, bỉnh tỉ viêm hoả”. (Tạm dịch: Trừ sâu bọ đục thân, cùng cả loài cuốn lá, không làm hại ruộng ta, điền tổ có thần quản, bắt ném vào lửa cháy). Đoạn này nói về việc tiêu trừ sâu hại, bắt được thì ném vào trong lửa, điều này tốt cho môi trường hơn là dùng thuốc trừ sâu. Đến sau khi thu hoạch xong, “Bỉ hữu bất hoạch trĩ, thử hữu bất liễm tế; bỉ hữu di bỉnh, thử hữu trệ tuệ; y quả phụ chi lợi”. (Tạm dịch: Ở kia lúa non chưa gặt, ở đây lúa cắt chưa gom; chỗ kia để rơi vài bó, chỗ này sót lại mấy bông; lợi ấy là cho quả phụ). Cố tình để lại một chút thóc vãi để người nghèo khó mà trong nhà không có tráng đinh đi nhặt nhạnh, quả là rất có dụng tâm. Sau mùa bội thu, tiếp đến là “Lai phương nhân tự, dĩ kỳ tinh hắc, dư kỳ thử tắc, dĩ hưởng dĩ tự, dĩ giới cảnh phúc”. (Tạm dịch: Cháu con tề tựu tế trời, bò đỏ heo đen bày sắp sẵn, thóc lúa cao lương cùng lễ quý, hiến dâng tế phẩm hành tế lễ, cầu ban đại phúc cho chúng dân). Dùng tế lễ long trọng cảm tạ trời đất thần linh. Đây chính là hình ảnh cày cấy của nông dân thời nhà Chu. Bài thơ này đã cho chúng ta thấy được bản chất giản dị, cẩn thận, chăm chỉ, thương xót người nghèo, và biết cảm ơn của người xưa, thật khiến người ta cảm động.

(1) Bạn nghĩ xem vì sao Trung Quốc phải “lấy nông nghiệp lập quốc”?

(2) Bạn thử nghĩ xem, chúng ta phải làm gì mới khiến hoa màu không có cỏ dại, vừa chắc lại tốt nào?

(3) Vì sao người xưa lại phải cố ý để lại một ít thóc vãi để người ta đi nhặt nhạnh nhỉ?

(4) Chúng ta hãy nói xem việc canh tác ngày nay và ngày xưa có gì khác nhau?

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/44601

ChanhKien.org

Bài Liên Quan

Văn hóa Thần truyền tạo Đôn Hoàng (Phần 4): Động Tàng Kinh | Văn hóa Thần truyền

Cách giải thích độc đáo của người xưa về cây mạ non | Văn hóa truyền thống

Subscribe
Notify of
guest

guest

0 Bình Luận
oldest
newest most voted
Inline Feedbacks
View all comments

Thiên thư "CHUYỂN PHÁP LUÂN" vạn năm khó gặp, ai chưa đọc uổng kiếp làm người



Chuyển Pháp Luân” rốt cuộc là một cuốn sách như thế nào? Tại sao nó lại được ca ngợi là “chiếc thang dẫn lên trời”, “một bộ thiên cổ kỳ thư chưa từng có trong lịch sử nhân loại”?

Cuốn sách này có điều gì thần kỳ? Nó làm thế nào mà cải biến được tâm hồn và vận mệnh của hơn 100 triệu người trên toàn thế giới?

Australian Broadcasting Corporation (ABC) vào ngày 5 tháng 12 năm 2004 đã từng công bố danh sách xếp hạng 100 cuốn sách được người dân Úc yêu thích và bầu chọn từ hơn 5000 loại sách, sách “Chuyển Pháp Luân” xếp hạng thứ 14 trong 100 đầu sách, và là cuốn sách xuất xứ từ phương Đông duy nhất nói về tu luyện khí công.

“Chuyển Pháp Luân” tạo ra một cơn sốt, và trở thành một trong 10 đầu sách bán chạy nhất Trung Quốc năm 1997

>> Hướng dẫn học “Pháp Luân Công” cho người mới
>> Thiên thư “Chuyển Pháp Luân” Vạn năm khó gặp_Ai chưa đọc uổng kiếp làm người
>> Với những hiệu quả thần kỳ “Pháp Luân Công” được đưa vào Trường học và các hoạt động cộng đồng
>> Các điểm luyện công – Hướng dẫn tập miễn phí.

Mất ngủ suốt 34 năm – Điều gì đã giúp tôi vượt qua?

10/02/2023

Liệu có phương pháp thoát khỏi Bệnh tật, thoát khỏi Thiên tai, Ôn dịch ?

02/08/2021
Facebook X (Twitter) Instagram Pinterest
  • Trang Chủ
  • SỨC KHỎE
  • VĂN HÓA
  • VIDEO
© 2025 Liên hệ mail : [email protected].

Type above and press Enter to search. Press Esc to cancel.

wpDiscuz

Sign In or Register

Welcome Back!

Login to your account below.

Lost password?