Kim tự tháp lớn của Ai Cập đứng sừng sững trong lớp cát vàng đã hơn ngàn vạn năm, nó vẫn luôn lặng lẽ chăm chú nhìn thế gian, vẫn luôn đang lặng lẽ đợi chờ điều gì đó. Phải chăng là đang chờ đợi chủ nhân của nó, vén lên bức màn thần bí của nó? Hôm nay trí huệ của tôi tu xuất được trong Đại Pháp, cũng là để trả lại đoạn lịch sử đã bị lịch sử nhân loại xóa nhòa. Đương nhiên, nếu muốn nói rõ ràng, thì không thể không kể hết lại từ đầu.
Nghe trên Youtube
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 9
Phần 10
Phần 11
Phần 12
Phần 13
Phần 14
Phần 15
Phần 16
Phần 17
Phần 18
Phần 19
Hết.
PHẦN 1:
Trong lịch sử xa xôi trước đây, nơi cảnh giới rất cao của vũ trụ có hai vị Giác giả, vì để quy chính vũ trụ to lớn, đã cùng ký kết thệ ước với Phật chủ, quyết định hạ thế trợ Sư chính Pháp. Trong quá trình không ngừng đi xuống họ cũng đã không ngừng kết duyên, và cũng không chỉ một lần kết duyên cùng Phật chủ khi ngài khai sáng các thế giới thiên quốc của các tầng thứ khác nhau.
Hai vị Giác giả từng làm hai đại đệ tử của Phật chủ khi Ngài sáng tạo một thế giới thiên quốc của tầng thứ rất cao. Thế giới thiên quốc này có tên là Cự Thiên thế giới. Hình tượng của Phật chủ trong tầng thứ này là Cự Thiên Phật. Thánh điện của Phật là tháp vàng lấp lánh ánh vàng kim, óng ánh lung linh. Dưới đáy là hình vuông, bốn phía là hình tam giác cân, tháp vàng lấp lánh ánh sáng thuần tịnh, thấm nhuần vào chúng sinh trong thiên quốc.
Khi Cự Thiên Phật tuyên giảng Phật Pháp, âm thanh to lớn truyền rộng, thiên hoa trải khắp nơi, phi thiên bay múa, hiện ra muôn vàn điềm lành, kể ra không hết. Trong khoảng thời gian đó Kim Phụng (chim phượng vàng) bắt đầu múa, Kim Mã (ngựa vàng) và Kim Sư (sư tử vàng) dương cao đôi cánh, bay vòng tròn, cảnh đẹp hiện lên trước mắt làm chúng sinh không sao thưởng thức hết.
Một ngày nọ, sau khi Cự Thiên Phật giảng Pháp cho chúng sinh xong, Ngài nói: “Các vị sau này tiến nhập vào Tam Giới, trên mặt đất hãy xây dựng Kim Tháp giống Cự Thiên thế giới của chúng ta, để tương lai ta sử dụng, trong các vị ai nguyện đi hoàn thành sứ mệnh?”
Hai đại đệ tử của Phật chủ khấu bái trước Ngài tỏ ý muốn đi xuống, chúng sinh không ai không lộ vẻ cảm động. Cự Thiên Phật mỉm cười, Ngài đưa mắt nhìn chúng sinh rồi nói: “Trong các vị có ai muốn hiệp trợ thì có thể cùng đi xuống”. Trong chúng Thần lại có vài vị bước ra, tỏ ý muốn đi.
Thần sắc Cự Thiên Phật trang nghiêm, Ngài nói: “Các vị hạ thế, cần giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành sứ mệnh, đến khi đó ta tự sẽ gia trì cho các vị.”
Ngài lại nói với hộ pháp Ma Ca: “Nơi nhân thế đầy gian khổ, ngươi cần ở trên thượng giới để ý tới họ, bảo hộ họ.”
Ma Ca nhận lời, nói: “Xin Phật chủ yên tâm, tôi sẽ bảo hộ họ.”
Các chúng Thần mang theo Pháp bảo của mình nhận lệnh đi xuống, vật cưỡi Kiếm Long và Phi Long của hai đại đệ tử cũng cần đi xuống, cùng hạ thế.
Tầng tầng đi xuống, tầng tầng xóa sạch ký ức; tầng tầng đi xuống, tầng tầng tiêu giảm hào quang, tầng tầng đi xuống, lại tầng tầng an bài. Trải qua thời gian dài đằng đẵng, họ đã tiến nhập vào Tam Giới.
Tại tầng trời thứ 33 của Tam Giới, có một tiên cung tên là Liên Cung. Chủ nhân của Liên Cung là Ngũ Thái Liên Hậu. Ngũ Thái Liên Hậu mặc áo lấp lánh năm màu đỏ, vàng, xanh lam, xanh lục, tím; ngồi trên hoa sen năm màu; đầu ngón tay có hoa sen xoay chuyển, trước ngực có hoa sen không ngừng nở; ánh sáng ngũ sắc làm nổi bật dung nhan thanh nhã của Liên Hậu, trên đầu có đóa hoa sen lớn màu sắc biến đổi, không ngừng chuyển động; khi nói, hoa sen từ trong miệng bay ra; thỉnh thoảng, Liên Hậu rời chỗ ngồi Bảo Liên của mình, mặc y phục màu trắng, trên đầu có một đóa hoa sen màu hồng, hoa sen trong tay áo không ngừng phóng ra; khi đi đường, mỗi bước đi dưới chân lại sinh ra hoa sen.
Có tiểu đồng tử nghịch ngợm, lấy những hoa sen đó làm đồ chơi, đẩy hoa sen trôi đi, hoặc ghép hai hoa sen lại rồi ngồi nằm trên đó nghỉ ngơi.
Trong chúng tiên có một vị Tích Lịch Kim Cương, tay cầm song giáo, dáng người to lớn lực lưỡng, toàn thân hóa trang bằng vàng, khuôn mặt màu tím, hai mắt tròn to, nghiêm túc không nói năng tùy tiện, chính khí lẫm liệt, nhưng lại đặc biệt thích hoa sen. Thỉnh thoảng đến Liên Cung thăm hỏi Liên Hậu, Liên Hậu liền sai các thị nữ múa điệu múa hoa sen cho Kim Cương thưởng thức. Các thị nữ đều là hóa thân của hoa sen, trên thân đều có trang sức hoa sen, điệu múa uyển chuyển mềm mại, lúc thì như nụ hoa sắp nở, lúc thì như hoa sen nở khai, lúc thì uốn lượn về phía trước, lúc thì nhanh chóng tản ra. Chỉ khi đó mới nhìn thấy mặt Kim Cương lộ sắc mặt vui vẻ hòa nhã.
Sau thời gian dài, Kim Cương đi đến Liên Cung không cần thông báo nữa, mỗi khi đến hoặc là xem múa hoa sen, hoặc là thưởng thức cảnh đẹp của Liên Cung, không làm phiền đến Liên Hậu. Liên Hậu cũng không làm phiền đến Kim Cương.
Ngũ Thái Liên Hậu và Tích Lịch Kim Cương chính là hai vị Giác giả cùng nhau đến để kết duyên được nói đến ở phần đầu.
PHẦN 2:
Trong bài trước có nhắc tới Ngũ Thái Liên Hậu và Tích Lịch Kim Cương chính là hai vị Giác giả đến để kết duyên, thực ra hai vị Giác giả này trong quá trình liên tục đi xuống, tại các tầng thứ khác nhau có các hình tượng khác nhau, trong bài trước sở dĩ chỉ nhắc đến Ngũ Thái Liên Hậu và Tích Lịch Kim Cương là vì họ có liên quan đến kim tự tháp, cho nên những hình tượng khác không nói thêm nữa.
Trở lại chuyện chính
80 triệu năm trước, trên Trái Đất có ba loại người cùng tồn tại: người khổng lồ, người trung bình, và người tí hon. Người trung bình chính là nhân loại chúng ta ngày nay, chiều cao bình quân không đến hai mét; người tí hon chỉ cao vài tấc. Người khổng lồ, người trung bình, và người tí hon sinh sống ở những nơi khác nhau, ở giữa có núi cao, biển, sa mạc v.v. ngăn cách, cho nên giữa họ không làm phiền lẫn nhau.
Người khổng lồ sinh sống trong một phạm vi rộng lớn trên Địa Cầu, mặc dù người khổng lồ cao khoảng năm mét, nhưng tỉ trọng lại hài hòa. Các nước người khổng lồ khác nhau cung phụng thần linh khác nhau.
Tại miền trung bộ của vùng Europa, có một người khổng lồ tên là Ma Đàn, là một đại dũng sĩ, sức mạnh hơn người, thích cuộc sống tự do tự tại. Anh từng đi qua một số quốc gia, cảm thấy những nơi đó đều không phải là nơi mình muốn lưu lại. Một lần trong giấc mơ, anh mơ thấy một thần linh áo trắng, tóc vàng kim, mắt xanh ngọc bích chỉ điểm cho anh rằng: “Ngươi cần đến Charophri, và ở đó khai sáng sự nghiêp”.
Sau khi Ma Đàn tỉnh giấc, quyết định làm theo điểm hóa của thần linh đi tìm Charophri. Anh đã đi qua nhiều nơi, nhưng đều không tìm thấy nơi thần linh chỉ bảo.
11 năm đã trôi qua, anh vẫn kiên trì tìm kiếm.
Một hôm, anh đến một nơi có non xanh nước biếc, phong cảnh làm người ta thoải mái dễ chịu. Anh cảm thấy nơi đây chính là nơi mình muốn tìm.
Anh nhìn thấy xa xa có một người con gái mặc y phục màu trắng ngồi trên một tảng đá, anh liền đi về phía đó. Sau khi đến gần, anh khom người thi lễ, ngôn từ khẩn thiết nói: “Xin hỏi, nơi đây có phải là Charophri không?”
Cô gái nghe xong, cười khanh khách, rồi nói với anh: “Tôi chính là Charophri, sao anh lại biết tên của tôi?”
Ma Đàn lặng người, kể cho cô gái về việc thần linh chỉ điểm trong giấc mơ.
Thần sắc cô gái trở lên trang nghiêm, cô nói: “Tôi ở nơi đây đã đợi rất lâu, đã 11 năm rồi, người anh nhìn thấy chính là chị của tôi – Europa. Khi chị ấy sai người đến tìm tôi, thì sứ mệnh của tôi đã hoàn thành rồi, tôi cần trở về thiên thượng rồi.”
Nói xong, cô gái biến hóa thành ba loại hình tượng: Cự Hỷ Lạc Phật, Chiến Thần Lệ Thiên, Địa Thần Mô Mẫu. Biến hóa xong, cô khôi phục trở lại hình dạng ban đầu, rồi nói với Ma Đàn: “Anh hãy thờ cúng ba vị Thần linh này, họ sẽ bảo hộ anh kiến lập quốc gia. Con cái anh sẽ làm rạng rỡ sự nghiệp của anh. Ta tặng thêm cho anh hai viên tiên đan, anh hãy giữ nó cho con cái mình, khi đến lúc tự sẽ có an bài.” Rồi cô lấy trong áo ra một cái lọ nhỏ xanh biếc, đưa cho Ma Đàn. Ma Đàn tiếp nhận chiếc lọ, vừa muốn khấu tạ thì cô gái đã biến mất.
Ma Đàn thi lễ khấu tạ tại nơi cô gái biến mất, rồi nhớ kỹ nơi này. Sau đó anh ở nơi đây dốc sức giúp đỡ mọi người làm việc, dùng tiền kiếm được mời thợ giỏi nhất để nặn ra ba bức tượng Thần theo ấn tượng của bản thân mình, rồi tìm đến nơi đã gặp Charophri và xây một gian nhà để thờ cúng ba vị Thần linh này.
Sau đó, mỗi ngày Ma Đàn đều dùng tâm thành kính nhất để khấu bái Thần linh, tại nơi đây làm việc tốt, trừ sạch tà linh, giết chết giác long hại người (một loài khủng long hung ác) và đỉa tuyết tác oai tác quái, giúp đỡ mọi người xây cầu, sửa đường, v.v. Cứ như vậy, mọi người đều biết nơi đây có một người đạo đức cao thượng đến, một đại dũng sĩ vô cùng dũng mãnh. Mọi người đều muốn tụ tập vây quanh anh, coi anh như thủ lĩnh của mình.
Thông minh, chân thành, sức mạnh hơn người làm cho uy vọng của Ma Đàn ngày càng cao. Sau này mọi người chọn anh làm quốc vương, tại nơi đó xây dựng nên một quốc gia, lấy tên là “Ma Thiên” quốc.
Ghi chú: “Charophri” mà Ma Đàn nhìn thấy chính là nữ Thần cai quản vùng Châu Phi. “Europa” mà anh thấy trong mộng chính là nữ thần cai quản vùng Châu Âu. Cho nên sau này “Charophri” cũng là chỉ vùng châu Phi, Europa cũng là chỉ vùng châu Âu.
PHẦN 3
Sau khi Ma Thiên quốc được thành lập, Ma Đàn chiêu mộ người có tài năng, ban cho làm quan, xây dựng luật pháp, kiến lập chế độ, làm mọi thứ vận hành theo tuần tự.
Khi Ma Thiên quốc thành lập, Ma Đàn đã 48 tuổi, mọi thứ đã ổn định rồi, hôn sự của quốc vương cũng trở thành chuyện lớn mà người dân trong nước quan tâm.
Lúc này, có hai người con gái lọt vào tầm mắt của quốc vương. Một người là con gái của tả đại thần Trí Khải, tên là Diệu Cát; còn người kia là con gái của hữu đại thần Huyền Phàm, tên là Tú Hàm.
Diệu Cát có nước da rám nắng, vầng trán rộng, lông mày thẳng, hai đầu lông mày cách xa nhau, đôi môi dày. Tú Hàm có nước da trắng nõn, tướng mạo thanh tú xinh đẹp, môi hồng răng trắng, lông mi cong cong, ánh mắt long lanh.
Mới đầu Ma Đàn rất có cảm tình với Tú Hàm, cảm thấy Tú Hàm có gương mặt rạng rỡ, cử chỉ nhanh nhẹn, nhiệt tình, khiến cô trở nên nổi bật. Còn Diệu Cát cử chỉ đoan trang, không nói nhiều, nhưng lại có cách nhìn thấu đáo về mọi việc, có lúc khiến Ma Đàn cảm thấy bất ngờ. Diệu Cát không hay mở miệng cười, nhưng khi nàng cười, nụ cười nở ra từ khóe miệng, rạng rỡ cả khuôn mặt, nụ cười trong trẻo, vẻ mặt dịu dàng. Khi ở cùng với Diệu Cát, tâm tình Ma Đàn rất bình tĩnh hòa ái, rất thoải mái. Ma Đàn cảm thấy thích cả hai cô gái, không biết chọn ai. Ông khấu bái hỏi ý Thần linh, nhưng Thần linh không hiển hiện. Ma Đàn đành tự mình chọn lựa.
Ma Đàn đang chuẩn bị vài chuyện đại sự quốc gia, ông đề cập trước tiên với Tú Hàm. Tú Hàm tính tình hoạt bát, chưa nghe hết lời đã bắt đầu phát biểu ý kiến, thể hiện cách nhìn đối với một số sự việc, lại còn thêm thắt sự tưởng tượng của bản thân, có lúc cao hứng đến nỗi nhảy cả lên. Khi Ma Đàn đưa ra ý kiến trái chiều, Tú Hàm liền bĩu môi, nũng nịu túm vạt áo của Ma Đàn, bảo Ma Đàn phải nghe theo ý kiến của mình, khiến Ma Đàn nhất thời quên hết tất cả.
Sau khi rời khỏi Tú Hàm, Ma Đàn cảm thấy đầu óc choáng váng. Mà cách ăn mặc và trang điểm của Tú Hàm không chú ý tiểu tiết, khiến cho Ma Đàn sinh ra niệm đầu bất hảo. Tú Hàm làm cho Ma Đàn không thể chuyên tâm làm việc, tâm trí xao động, ảnh hưởng đến tinh lực, điều này làm ông rất bất an: là một vị quốc vương, không quy chính bản thân thì sao có thể giáo hóa bách tính đây?
Khi Ma Đàn bàn bạc với Diệu Cát một số sự việc, Diệu Cát trước tiên luôn lắng nhe, sau đó hỏi lại quốc vương, rồi mới nói ra kiến giải của bản thân, lại còn bổ sung chỗ thiếu sót của Ma Đàn. Dù có chỗ khác với ý kiến của quốc vương, nhưng nàng vẫn có thể nói một cách bình tĩnh hòa ái. Ở bên cạnh Diệu Cát, Ma Đàn có một cảm giác giống như ở bên một người bạn tri kỷ, rất thoải mái, vui vẻ. Ma Đàn còn phát hiện rằng, Diệu Cát không những thông minh mà còn có đạo đức cao thượng, biết giữ gìn lễ tiết, đề xuất các ý kiến ngày càng tốt hơn. Cán cân tình cảm trong tâm Ma Đàn bắt đầu nghiêng về phía Diệu Cát.
Ma Đàn còn quan sát hai người con gái này ở một số chỗ đông người. Ông phát hiện ở nơi nào đông người tất sẽ có mặt Tú Hàm, nàng luôn trang điểm lộng lẫy và trở thành tiêu điểm chú ý của mọi người, nàng cảm thấy vinh dự vì điều đó. Nhưng Diệu Cát lại không hay xuất hiện, dù xuất hiện cũng không gây sự chú ý, nàng thường chào hỏi mọi người xung quanh, quan tâm hỏi han người già và trẻ em. Sự trầm tĩnh, khoan dung của Diệu Cát đối lập hoàn toàn với tính cách sôi nổi, phóng túng của Tú Hàm.
Còn một chi tiết nhỏ khiến Ma Đàn đưa ra quyết định cuối cùng. Vào những lúc khác nhau, hai cô gái cùng quốc vương đi dạo trên hành lang, Tú Hàm như con bướm tung tăng bay nhảy, làm quốc vương hoa cả mắt, có lúc sà vào lòng quốc vương; còn Diệu Cát lặng lẽ theo sau, cảm giác yên bình, thoải mái, khiến cho quốc vương chỉ muốn đi tiếp.
Cuối cùng Ma Đàn quyết định chọn Diệu Cát làm vợ. Trong tâm ông nghĩ: “Ta không thể chỉ chú trọng dung mạo xinh đẹp khiến ta mê mẩn tinh thần mà bỏ qua đức tính tốt đẹp, hãy để Diệu Cát phụ trợ ta trị vì quốc gia, xoa dịu tinh thần ta những lúc ta mệt mỏi! Ta sao còn có thời gian vui chơi cùng Tú Hàm cơ chứ?”
Sau khi Ma Đàn đưa ra quyết định, tối hôm đó ông nằm mơ thấy trên mặt đất có bốn đôi giầy, trong đó có hai đôi giầy to, và hai đôi giầy nhỏ. Ma Đàn tỉnh dậy vô cùng vui mừng, cho rằng giấc mộng này báo trước rằng Diệu Cát sẽ sinh cho ông một nam một nữ.
Lựa chọn của Ma Đàn làm Tú Hàm trở nên lạc lõng, đố kỵ và đau khổ, sắc mặt nàng tái nhợt đi hồi lâu, nàng từng giận dỗi không muốn xuất giá.
Quốc trung đại tướng Tử Nhiên là người nhân hậu, độ lượng, phẩm hạnh và tướng mạo đều tốt. Anh rất quan tâm đến Tú Hàm, về sau đã lấy Tú Hàm làm vợ. Coi như Tú Hàm cũng có chỗ nương tựa tốt.
Ma Đàn lựa chọn Diệu Cát rồi, Diệu Cát vẫn ung dung bình tĩnh, khiến Ma Đàn càng thêm khen ngợi.
Khi Ma Đàn 60 tuổi, Diệu Cát mang thai, sinh hạ một bé trai. Ma Đàn về già mới có con khiến ông vui mừng khôn xiết. Khi con trai chào đời, Ma Đàn thấy trên bầu trời xuất hiện mây ngũ sắc, lại nghe thấy từng hồi tiên nhạc, nên Ma Đàn cho rằng con trai của mình là do trời ban thưởng, ông càng thêm mừng rỡ.
Ba ngày trước khi con trai Ma Đàn chào đời, Diệu Cát có một giấc mơ, nàng mơ thấy một cuộn khí màu tím bay từ xa đến, khí màu tím dần dần tản ra, rồi xuất hiện một vị thần hai tay cầm liềm, sắc mặt màu tím, phong thái uy nghiêm. Bỗng nhiên vị thần này tiến về phía Diệu Cát nhoẻn miệng cười, Diệu Cát trong chốc lát tỉnh lại. Nàng cảm thấy vô cùng bồn chồn khó hiểu, trong lòng nghĩ, vị thần có vẻ mặt trang nghiêm như thế, sao bỗng dưng lại vui mừng hớn hở đến vậy? Diệu Cát thấy rất kỳ lạ, nhưng nụ cười khiến nàng cảm thấy rất ấm áp. Vì thế Ma Đàn và Diệu Cát đặt tên cho con trai là Ma Lạc.
Năm năm sau, Diệu Cát lại mang thai, nàng sinh hạ được một bé gái. Bé gái mới sinh được hai ngày liền biết mỉm cười với cha mẹ, cha mẹ bé vui mừng vô hạn. Niềm hạnh phúc khiến Ma Đàn cảm thấy trái tim mình như bông hoa đang nở vậy. Trước khi bé gái sinh ra, Diệu Cát trong lúc mơ mơ tỉnh tỉnh đã nhìn thấy đóa hoa sen ngũ sắc lớn từ trên trời rơi xuống, lại nghe thấy tiếng tiên nhạc vọng đến, rồi nhìn thấy hoa sen từ lớn biến thành nhỏ mà tiến vào trong bụng. Vì thế bé gái được đặt tên là Ma Thái.
Ma Lạc rất yêu mến em gái, thường hay ngắm nhìn dáng vẻ ngủ say của em gái hồi lâu, cố chờ đợi em gái tỉnh dậy. Ma Thái tỉnh dậy, mở to mắt, nhìn thấy anh trai liền vui mừng, bàn tay nhỏ múa may, sờ mặt anh trai, nói những câu ê ê a a không ai nghe hiểu được. Ma Lạc cảm thấy rất vui, thường hay lấy những đồ chơi đẹp cho em gái xem, chọc em cười. Những lúc đó Ma Thái liền mở to mắt nhìn, có lúc cười thành tiếng. Khi Ma Thái biết đi, cô bé cứ như hình với bóng đi theo sau anh trai. Anh trai cũng rất biết chăm sóc em gái, Ma Lạc còn hình thành thói quen, buổi tối ru cho em ngủ rồi mình mới đi ngủ. Diệu Cát khẽ nói với Ma Đàn: “Con trai mình quý mến em gái nó như vậy, chúng ta sau này không phải lo con gái bị bắt nạt nữa.”
Con trai Tử Hành của Tú Hàm, được ba tuổi, cũng cùng tuổi với Ma Thái. Chúng chơi cùng nhau, không có chút chừng mực kiêng nể gì, có lúc Tử Hành còn xô Ma Thái ngã, Ma Thái liền khóc to, tay vừa che mặt khóc, vừa nhìn qua kẽ ngón tay mách anh trai, cô bé cảm thấy rất khoái chí, rồi rất nhanh lại chuyển sang cười.
Khi Ma Lạc được 15 tuổi, Ma Thái được 10 tuổi, Ma Đàn và Diệu Cát lần lượt qua đời. Hai anh em vô cùng đau buồn, nhớ đến vòng tay ấm áp của mẹ, nụ cười đầy yêu thương và hiền hậu của cha, Ma Thái liền khóc không nguôi. Ma Lạc cố nén đau thương, an táng cha mẹ, an ủi em gái. Nhưng sự kiện này là một cú sốc lớn, Ma Lạc có lúc tinh thần cũng rất sa sút, khi ở bên em gái hai anh em đều rơi nước mắt. Nhưng trách nhiệm với quốc gia đã nhắc nhở Ma Lạc không thể mãi như vậy. Sau khi cha mẹ qua đời được 3 tháng, Ma Lạc kế vị làm vua, cậu cần cù tận tụy cai trị quốc gia.
Ma Thái thỉnh thoảng nửa đêm tỉnh dậy, không ngủ được, liền tay xách giầy, nhẹ nhàng đi chân không đến chỗ anh trai, nhìn xem anh trai đã ngủ hay chưa. Cô bé rón rén chạy đến trước cửa, vừa đặt đôi giày xuống, liền nghe thấy bên trong nói vọng ra: “Là em gái phải không? Vào đi!”
Ma Thái vừa nghe thấy tiếng anh trai, trong tâm thấy xót xa, miệng mếu máo, nước mắt tuôn rơi, tay giữ cửa mà không đi vào. Ma Lạc nhè nhẹ đẩy cửa ra, lau nước mắt cho em gái, kéo tay em gái đi đến bên cửa sổ. Hai anh em không nói gì, xung quanh tĩnh lặng. Một lát sau, Ma Thái bình tĩnh trở lại. Ma Lạc nói: “Em gái, về phòng ngủ đi!” Ma Thái gật gật đầu. Ma Lạc đỡ vai em, đưa trở về phòng, rồi dùng tiêu thổi khúc nhạc nhẹ nhàng du dương, đến khi em ngủ thì Ma Lạc mới rời đi.
Ban ngày sau khi xong việc quốc sự, Ma Lạc dẫn em gái đi chơi xa, để xoa dịu nỗi đau buồn mất cha mẹ của em gái. Sau hai ngày, Ma Lạc phát hiện em gái không khóc nữa. Ma Thái nói với anh trai: “Trong hai ngày này em mơ thấy cha mẹ đang ở trên thiên thượng, trên thân cha mẹ phát ra ánh sáng. Mẹ nói với em: ‘Con à, đừng khóc nữa, ta mong con luôn vui vẻ’. Sau đó, em nhìn thấy hai chữ ‘vui vẻ’ bay vòng quanh trước mặt em, em nhớ rằng mình phải vui vẻ.” Ma Lạc vừa nghe dứt liền vô cùng vui mừng, và sáng tác ra một khúc nhạc, gọi là “Từ ân tụng”, dịch thành văn tự hiện đại, đại ý như sau:
Cha mẹ hiền, mãi ở chốn thiên đường; cha mẹ vui vẻ, ở bên cạnh chúng ta;
Cha mẹ lương thiện, mãi được an khang; Lạc con xin cúi đầu, mong cha mẹ chớ lo lắng ưu sầu.
Từ ái trường tồn, mãi mãi chúng con không quên!
Khi Ma Lạc được 18 tuổi, chàng lấy Văn Mỹ, một người con gái vừa có đức hạnh lại tài năng được người dân trong nước ca ngợi làm vợ. Ma Lạc, Văn Mỹ, Ma Thái ở bên cạnh nhau, tạo nên một bức tranh mỹ lệ: Ma Lạc tóc màu vàng kim, khôi ngô anh tuấn; Văn Mỹ đoan trang, điềm đạm, nho nhã, tính cách điềm tĩnh không màng danh lợi; Ma Thái trắng trẻo, nhu hòa xinh đẹp, hoạt bát đáng yêu, mái tóc dài gợn sóng màu vàng kim rủ trên vai, trước trán đeo trang sức lóng lánh, tay đeo vòng bạc.
Vương hậu Văn Mỹ thích sự thanh tịnh, thành tâm lễ Phật. Ma Thái thích náo nhiệt, những việc Ma Lạc làm cô đều rất muốn tham dự. Hai anh em họ vẫn như trước đây, thường hay ở bên nhau.
Đến khi Ma Lạc 28 tuổi, một hôm Ma Lạc nói với Ma Thái: “Em gái à, anh mơ thấy thần linh điểm hóa rằng anh cần phải xây dựng tháp Phật cao lớn để cung phụng Phật, anh nhìn thấy trong mây trắng hiện ra ngọn tháp màu vàng kim.”
Ma Thái mở to mắt, nhìn anh trai rồi nói: “Chuyện này không phải tầm thường đâu, chúng ta phải rất coi trọng, để làm Thần linh vừa lòng.” Ma Lạc gật đầu, rồi miêu tả lại tháp Phật mình nhìn thấy trong mơ cho Ma Thái nghe, đáy tháp Phật hình vuông, bốn bên hình tam giác cân. Cùng với sự miêu tả của Ma Lạc, hình dáng của tháp Phật cũng dần dần hiện lên trong đầu của Ma Thái. Nàng ngạc nhiên nói: “Anh à, tháp Phật xuất hiện trong đầu em, rất đồ sộ, vuông vắn, phát ra ánh sáng màu vàng kim. Này anh, chúng ta gọi nó là Kim tháp nhé!”
Ma Lạc giật mình, trầm ngâm suy nghĩ, dừng một lúc rồi nhìn em gái nói: “Sao anh lại cảm thấy hình dáng của tháp Phật này rất quen thuộc, sau khi nghe thấy hai chữ ‘Kim tháp’ anh lại cảm thấy chấn động, trong lòng cảm thấy ấm áp vậy nhỉ? Trong chuyện này nhất định ẩn chứa điều mà chúng ta không biết, sao anh đột nhiên cảm thấy ý nghĩa to lớn của việc xây Kim tháp, cảm giác thấy trách nhiệm mình gánh vác lại to lớn và quan trọng thế?”
Thế là hai anh em quyết định làm theo điểm hóa của Thần bắt tay vào xây dựng tháp Phật.
PHẦN 4
Hai anh em Ma Lạc và Ma Thái quyết định xây dựng tháp Phật theo sự chỉ điểm của thần linh, không ngờ rằng cùng lúc đó các thần tiên cũng đang tập trung bàn bạc về việc xây tháp Phật. Bởi vì xây tháp Phật liên quan đến sự việc to lớn, tích công đức muôn đời.
Thần tiên Thạch Bà nói: “Tôi muốn mang loại đá tốt nhất từ biển Bắc Hải đến Ma Thiên quốc, rồi để Ma Lạc tìm được nó. Loại đá này trải qua nhiều loại tôi luyện trong lửa nóng, lại trải qua ngàn đời ngâm trong băng đông, nên không dễ bị nứt vỡ.”
Phong Bà lên tiếng: “Nhân loại sau này sẽ có nhiều lần đại nạn, có lúc sức gió rất mãnh liệt, lực phá hoại mạnh mẽ, chỉ sợ loại đá này sẽ bị ảnh hưởng.”
Một vị thần tiên quản việc nung luyện có tên là Đại Luyện Kim Cương, mở miệng phát biểu ý kiến. Trong khi nói ngọn lửa từ trong miệng phun ra, lửa cháy mạnh bốc lên. Vị này nói: “Ta biết một loại ô thạch (đá đen), có chứa 5 loại kim loại, sau khi tôi luyện, dùng nó quét lên đá, có thể làm đá bền chắc gấp vài lần, lại thêm vào loại đá “Giao Thạch Châu” chỉ riêng chúng tôi mới có, do Ma Thái đích thân pha trộn, thì còn có thể phát huy tác dụng lớn hơn nữa.”
Có vị thần tiên cười nói: “Tại sao lại là Ma Thái đích thân trộn, Ma Lạc còn khỏe mạnh hơn, công việc chân tay anh ta làm không được sao?”
Đại Luyện Kim Cương nghiêm nghị nói: “Các vị có điều chưa biết, Ma Thái là Ngũ Thái Liên Hậu chuyển sinh, lại có một viên tiên đan do nữ thần Charophri ban tặng, cho nên để Ma Thái trộn tất sẽ có chỗ huyền diệu trong đó.”
Lúc này, Đại Lực Thần và Đại Vô Hóa tiên nhân nhìn nhau, nói: “Xem ra tiên đan của chúng ta cũng có việc cần dùng đến rồi.”
Đại Luyện Kim Cương lại nói với Thạch Bà: “Đến lúc đó ta sẽ đặt ô thạch bên cạnh tảng đá mà ngài mang tới, để cho Ma Thái phát hiện ra nó.”
Mộng Cảnh tiên tử, tay cầm Mộng bình, cười nói: “Đến lúc ta cũng cần đi điểm hóa cho Ma Thái rồi.”
Các vị thần tiên đều mong muốn hoàn thành trọn vẹn việc này, nên ai nấy đều tận tâm tận lực.
Thạch Bà cưỡi mây về phía Bắc Hải, đi gặp Lăng Vân tiên tử. Lăng Vân tiên tử nói: “Tôi biết bà bà đến, nên đã đợi từ lâu rồi.” Thạch Bà hỏi: “Em gái Thạch Nguyên của ngài đâu rồi?” Lăng Vân tiên tử ủ rũ đáp: “Thạch Nguyên tiên tử trước giờ vẫn trông coi bảo vệ Huyền Thạch, chứng kiến Huyền Thạch trải qua các loại tôi luyện gió thổi, phơi nắng, cát phủ, đóng băng, v.v. Cách đây không lâu, lại sợ Huyền Thạch trong tương lai phải trải qua quá nhiều khảo nghiệm, nên tiên tử đã đem những tinh hoa của bản thân, ép nhập toàn bộ vào trong Huyền Thạch, bởi vì mất hết tinh hoa nên Thạch Nguyên tiên tử đã hóa thành tro bụi.”
Thạch Bà lộ vẻ xúc động, bà nói: “Xây dựng Tháp Phật liên quan đến sự việc trọng đại, Thạch Nguyên là tinh hoa của Thạch Nguyên thánh mẫu ngưng kết mà thành, lần này trông nom bảo vệ Huyền Thạch, có thể coi như tận tâm tận lực rồi.”
Lăng Vân tiên tử đưa tay ra, lòng bàn tay xuất hiện địa hình của đáy biển. Tiên tử chỉ ra vị trí sở tại của Huyền Thạch, nói: “Bà bà đi tìm chúng đi, ta ở trên không bố trí cái lồng bằng mây cho Huyền Thạch để đưa các vị đi một đoạn.”
Thạch Bà đến đáy biển, tìm thấy Huyền Thạch, liền niệm chú quyết, trong khoảng thời gian ngắn lớp đá động đậy, rồi nổi lên trên, liên tục cho đến khi nổi lên đến mặt biển, nước biển cuốn bay lên, trên mặt biển hình thành một cảnh tượng đẹp vô cùng. Khi đến mặt biển, Thạch Bà phẩy cây roi đuổi đá, dẫn hòn đá lớn đi về phía Ma Thiên quốc. Dọc đường có một số tiên nhân nhìn thấy cảnh tượng này, ngạc nhiên không biết nói gì.
Có tiên nhân lấy làm khó hiểu, đá to thế này dùng vào việc gì chứ? Có tiên nhân nhìn thấy hòn đá này cần gánh vác sứ mệnh nhất định nào đó, liền đi theo từ xa, muốn xem kết quả thế nào; cũng có tiên nhân rất có hứng thú với cây roi của Thạch Bà, hiếu kỳ nên nhìn mãi, trong tâm nghĩ: “Cái roi nhỏ nhỏ này, sao lại lợi hại như thế?”
Roi dắt đá của Thạch Bà có uy lực to lớn vô song, có thể đẩy, cắt bất cứ loại đá nào trong thiên hạ. Đã có tiên nhân rất có hứng thú với nó, thì tại đây xin nói thêm về lai lịch của nó.
Khi Tam Giới vừa mới được khai sáng, trong tay áo của một vị tiên tử trên thượng giới rơi ra một quân cờ, quân cờ này rơi xuống mặt đất tạo thành núi, trên núi không có cọng cỏ nào. Bỗng một hôm ngọn núi nứt ra, ở giữa lộ ra một tảng đá to tròn (Cự Thạch) đen bóng, hòn đá này chịu gió thổi nắng chiếu, trải qua ngày dài tháng rộng, nhưng vẫn cứng chắc như khi mới xuất hiện lần đầu.
Một hôm, Bồng Mông tiên tử đi qua nơi này, Bồng Mông là tiên tử chủ quản sự sinh trưởng của cây cối nơi núi hoang, vị tiên tử này ngồi trên hòn đá lớn, quan sát ngọn núi trọc, cảm thấy trên ngọn núi này cây cối không có khả năng sinh trưởng, nên bỏ đi. Ông lại không biết được rằng, khi ông nghỉ ngơi, một hạt lê giống trong túi của ông đã khẽ trượt ra, nó chạy đến bên dưới Cự Thạch.
Nhiều thần tiên qua lại nơi này, có vị ngồi trên tảng Cự Thạch này nghỉ giải lao, cho nên Cự Thạch vì thế mà đắc được nhiều linh khí. Mà hạt giống kia lại thường hay nhảy tới nhảy lui quanh nó, nên cũng hưởng lợi ích từ các vị tiên nhân: Hồ Đồ đại tiên ngủ trên tảng Cự Thạch đó, nó hấp thụ được khí mà ngài hít vào thở ra; tro bụi dưới chân một vị tăng nhân vân du rơi ra chơi đùa với nó; giọt nước bọt của giác giả Vô Mê rơi lên thân nó.
Có một lần, hạt lê đang nhảy nhót bên Cự Thạch, bỗng nhiên nghe thấy bên trong Cự Thạch có tiếng nói: “Nhìn ngươi vui sướng biết bao, tự do biết bao, ta lại không ra được.” Hạt lê hỏi với vẻ kinh ngạc: “Ngươi là ai? Sao lại nói chuyện với tôi?” Âm thanh bên trong Cự Thạch nói: “Ta là Thạch Tinh, ở bên trong hòn đá. Ta thỉnh thoảng nói chuyện với ngươi, ngươi lại giống như không nghe thấy, lần này ngươi rốt cuộc đã nghe thấy rồi, sau này hai chúng ta có thể nói chuyện rồi.” Hạt lê cũng vô cùng vui mừng, nói: “Chỉ đáng tiếc là tôi không nhìn thấy bạn được.” Thạch Tinh nói: “Ta có thể thấy ngươi, nhưng ta lại không tự do như ngươi, ngươi nhìn không thấy ta, nhưng lại được tự do. Nếu ta được tự do giống ngươi thì tốt biết bao.”
Từ đó về sau, hai sinh mệnh này thường hay trò chuyện với nhau.
Một hôm, Thạch Tinh nói: “Hãy kể về những trải nghiệm của ngươi đi.” Hạt nói: “Khi đi cùng chủ nhân cũng rất vui, chủ nhân mang theo chúng tôi, đựng chúng tôi trong một cái túi to trong suốt. Chủ nhân đến một số núi non, liền có hạt được rắc trên núi hoặc dưới núi. Qua một khoảng thời gian, chủ nhân lại đến xem thì thấy lác đác vài cái cây đã mọc lên trên núi, nở ra những bông hoa mỹ lệ. Chủ nhân làm cho cả dãy núi tràn đầy sức sống, khiến chúng tôi nhìn mà hoa mắt. Một lần, tôi nhìn thấy chủ nhân thả một hạt sâm núi vào trong một cái hố, rồi nói: ‘Ở đây đợi đi nhé, ngươi sẽ mọc ở đây hơn ngàn năm.’ Chúng tôi vừa nghe, vừa ríu rít nghị luận, nói rằng tương lai tên đầy đủ của sâm núi nên gọi là lão Sâm Núi Ngàn Năm. Có một lần, chủ nhân treo cái túi to trên cây rồi ngủ một giấc, tôi thấy hạt táo và hạt hòe trượt ra, tôi nhìn nhìn, cảnh sắc xung quanh rất đẹp, xa xa còn có một con hươu, nhưng tôi không có trốn xuống.” Thạch Tinh hỏi: “Vậy sao lần này ngươi lại trốn ra?” Hạt nói: “Thường hay chạy ra ngoài, tâm tôi dần dần cũng lay động, tôi không muốn nhìn thế giới bên ngoài qua cái túi, mà muốn cảm thụ chân thực một chút, cho nên tôi mới trượt trốn ra ngoài.” Thạch Tinh hỏi: “Ngươi ở đây cảm thấy thế nào?” Hạt trả lời: “Nơi đây không có chút gì vui cả, ngoài việc thỉnh thoảng có mấy vị tiên nhân đi qua, thì chẳng nhìn thấy gì, ngay cả quạ cũng chẳng đến.” Thạch Tinh nói: “May cho ngươi đấy, nếu quạ mà đến thì ngươi chắc cũng chẳng còn nữa, nó nhìn thấy liền ăn ngươi luôn đấy.”
Thạch Tinh lại hỏi: “Ở đây không có chuyện gì làm ngươi cảm thấy thú vị ư?” Hạt nói: “Lần trước có một vị đại tiên vừa ngồi xuống liền ngáp, mãi không tỉnh táo. Khi ông ngủ gật, ta nương theo hơi thở của ông ta mà động tới động lui, cảm thấy vui thíchvô cùng. Còn có người ăn mặc rách rưới, bụi bặm trên thân quả là nhiều, đôi giày dưới chân đã rách lộ ra gót chân và đầu ngón chân. Trước đó tôi chưa từng nhìn thấy vị tiên nhân nào như thế, thật làm tôi khó hiểu?”
Hôm đó, lại có hai vị thần tiên đi qua chỗ này, ngồi trên Cự Thạch nghỉ ngơi. Vị tiên nam béo lùn vác một cái bình trên lưng; vị tiên nữ yểu điệu mặc quần áo màu xanh, trên cánh tay khoác một cái giỏ, trong giỏ thò ra cành cây. Hai vị thần tiên này, một vị chủ quản tưới nước, một vị chủ quản trồng trọt, được gọi là Hòa Hợp nhị tiên. Hai vị thần tiên đang nói chuyện, hạt lê từ bên cạnh hòn đá nhảy ra, bị tiên nữ nhìn thấy, kinh ngạc nói: “Ở đây sao lại có hạt giống được chứ?” Vị tiên nam nói: “Ngài trồng nó xuống, ta tưới chút nước, xem xem có thể mọc lên cây gì.” Tiên nữ đặt hạt giống lên Cự Thạch, tiên nam tưới chút nước lên hạt giống, tạo thành một giọt nước lớn. Sau đó hai vị thần tiên rời đi.
Hạt giống bị giọt nước bọc kín, không được tự do nữa, cũng không thể nói chuyện nữa, chỉ biết nằm bên trong giọt nước mà động đậy. Dần dần nó cảm thấy mình trướng lên. Qua một khoảng thời gian, nó nảy mầm. Sau khi nảy mầm thì nó lại có thể nói chuyện với Thạch Tinh. Mầm vẫn đang lớn, rễ cũng đang mọc, tua rễ dần dần lan ra trên Cự Thạch, nhờ vào ánh nắng, mưa và sương mà lớn lên, mầm dần dần lớn thành cây thân mềm, dài, thẳng.
Hai sinh mệnh này vẫn nói chuyện với nhau như trước đây. Thạch Tinh ngày càng hy vọng bản thân có thể thoát ra.
Một hôm, Khảm Chân đạo trưởng đi qua nơi đây, trong chốc lát nhìn ra Cự Thạch và cây sẽ thành một pháp khí. Đạo trưởng mừng rỡ, trong tâm nghĩ: “Để ta giúp sức cho ngươi.” Thế là đạo trưởng rút thanh kiếm gỗ ra, miệng niệm chú quyết, kiếm gỗ quay quanh hòn đá ba lần, rồi hình thành kiếm khí chụp cứng hòn đá. Sau đó đạo trưởng quay người rời đi.
Hòn đá này bắt đầu dần dần có vết nứt, giống như phong hóa, trải qua nhiều năm tháng thì hóa thành một đống cát, Thạch tinh có thể từ trong Cự Thạch đi ra, nhưng lại cảm thấy xung quanh giống như có tường đồng vách sắt, thì ra là bị kiếm khí chụp kín, cuối cùng bị phần rễ cây hấp thụ, và tiến nhập vào trong cây, cùng với cây hợp thành một thể. Cứ như vậy, lại trải qua rất nhiều năm.
Một hôm, Thạch Bà đi qua đây, nhìn thấy cảnh tượng này liền vội vã dừng lại. Thạch Bà nhìn thấy Thạch Tinh ở bên trong cây, vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Thạch Tinh ở bên trong cũng khấu bái Thạch Bà, hy vọng Thạch Bà thu nhận mình. Thạch Bà liền thi triển pháp lực với nó, cắt và tạo nó thành roi vụt đá. Cây roi này có thể lớn có thể nhỏ, hiểu được ý chủ nhân.
Thạch Bà dùng roi đưa đá đến bên ngoài kinh thành của Ma Thiên quốc, Địa Triệu Sứ Quân – thần linh chủ quản vùng đất Ma Thiên quốc – mang theo điềm lành xuất hiện, tiến đến phía trước nghênh tiếp, ngài nói: “Bà bà vất vả rồi, tôi đã dọn một chỗ hướng Đông Nam ở ngoài thành để đặt Huyền Thạch tại đó.”
PHẦN 5
Trong thiên cung có một con chim thần tên là Cự Khuyết, nó có bộ lông trắng muốt, trên cổ có một vòng màu đen, cái mỏ màu đen, cổ nó chuyển động linh hoạt. Đôi mắt long lanh chuyển động, dáng vẻ tinh nghịch. Một hôm, Cự Khuyết đậu bên lan can của Thiên Hồ, nhìn ngắm cảnh tượng quanh hồ, dường như đang tìm kiếm thứ gì đó, đột nhiên nó bay lên, lướt trên mặt hồ và bắt được một con cá chép đỏ, sau đó nó nhẹ nhàng đặt con cá trên mặt đất, rồi nhìn ngắm cá chép. Cá chép lật mình, mở miệng kêu: “Cự Khuyết, ngươi lại làm phiền đến giấc mộng đẹp của ta rồi, mau thả ta về đi.” Cự Khuyết chải chuốt bộ lông một cách đắc ý, nói: “Đã bao lâu rồi ngươi không chịu chơi với ta?” Cá chép lại lật mình nói: “Ngươi không biết rằng ta cần ngủ rất lâu à?” Cự Khuyết nói: “Ngươi ba lần biến thân, biến thành hoa, lá sen, cá, ta đều có thể nhìn ra. Ngươi không chơi với ta, chỉ muốn ngủ thì không được đâu.”
Lúc này có tiếng sáo trong trẻo vọng đến. Cự Khuyết nói: “Chủ nhân đang tìm ta, ta phải về đây.” Cá chép nói: “Ngươi thả ta về trước đã.” Chim thần chu mỏ ra, tỏ vẻ kiêu ngạo: “Được, nhưng lần sau không được biến thân nữa đấy.” Nói xong, chim thần liền lấy móng vuốt cắp cá chép lên thả nó về hồ. Cá chép trở về hồ, trong chốc lát đã khôi phục lại nguyên hình, thì ra là một cây cỏ tiên. Cây cỏ tiên này có bốn cái lá màu xanh sẫm, trông giống như dải ruy băng màu xanh sẫm, có thể biến dài hay ngắn tùy theo ý của cỏ tiên, phần gốc của bốn chiếc lá xoắn vào nhau theo chiều kim đồng hồ, nhưng lại mọc ra theo bốn hướng khác nhau. Vì thế, tên của nó là cỏ Tứ Bán.
Từ rất lâu rồi, cỏ Tứ Bán thường hay vui chơi trong Thiên Hồ, múa may lá cỏ, tung lên những bông hoa bằng nước, hòa lẫn trong tiếng nước bắn tung tóe là tiếng cười vui vẻ của cỏ Tứ Bán. Một lần, cỏ Tứ Bán đang chơi vui vẻ, bỗng nhiên cảm thấy có ánh mắt đang dõi theo nó, nó liền dừng lại, lặng lẽ quan sát, ngước mắt lên trên qua khỏi lan can bờ hồ, nó nhìn thấy một vị tiên tử. Vị tiên tử này mặc áo trắng, thắt dây đai màu xanh, tươi cười nhìn nó. Thấy nó dừng lại nhìn, liền vẫy tay gọi nó. Vừa thấy tiên tử gọi mình, cỏ Tứ Bán mừng rỡ chạy đến. Lúc này, tiên tử xuất một niệm truyền đến nó, cỏ Tứ Bán lập tức tiếp nhận được, ngay lập tức nó xòe lá ra vừa đúng kích cỡ mà tiên tử muốn. Sau đó theo tâm ý của tiên tử, nó làm một số động tác xoay tròn, nhảy múa, nhào lộn. Tiên tử không kìm được vui thích, liền thu nhận cỏ Tứ Bán làm pháp khí, bình thường nó được thỏa thích vui chơi trong Thiên Hồ. Cỏ Tứ Bán cũng vô cùng linh thông, dưới sự chỉ bảo của tiên tử, nó còn học được cách biến thân.
Lại có một lần, cỏ Tứ Bán đang vui chơi trong Thiên Hồ, bỗng nó nghe thấy tiếng cười, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy có chú chim màu trắng đang đậu trên lan can, trên cổ chim có một vòng màu đen, chú chim này giật mình nhìn cỏ Tứ Bán. Cỏ Tứ Bán cũng rất tinh nghịch, nhanh chóng lặn xuống nước, rồi biến thành một con chim màu trắng bay lên, đậu trên lan can. Chú chim trắng kia nhìn nó nói: “Ta biết ngươi chính là do cây cỏ kia biến ra.” Cỏ Tứ Bán bị nhận ra, liền thốt một tiếng “Ôi chà”, rồi rơi xuống nước, khôi phục lại nguyên hình, nó nổi lên mặt nước hỏi: “Ngươi là ai?” Chim trắng nói: “Ta tên Cự Khuyết, là sứ giả của Tế Nguyệt Tiên cung, ta có sư huynh tên là Hán Đạm, nhưng anh ta không thích vui đùa.” Cỏ Tứ Bán nói: “Nếu ngươi muốn vui chơi, thì cứ đến tìm ta nhé, hai chúng ta cùng nhau vui chơi.” Cự Khuyết nói: “Được, nhưng ta thấy kỳ lạ là, ngươi sao lại có khả năng biến thân như vậy?” Cỏ Tứ Bán nói: “Chủ nhân của ta là Sách Oanh tiên tử, là bà ấy dạy ta đó.” Kể từ dạo ấy, cỏ Tứ Bán và Cự Khuyết trở thành bạn tốt của nhau, thường hay vui đùa với nhau. Phần đầu của bài viết, chính là cảnh Cự Khuyết và cỏ Tứ Bán đang vui chơi.
Cự Khuyết nghe thấy tiếng sáo liền bay về bên chủ nhân. Chủ nhân của nó là một vị tiên trưởng mặc áo bào trắng, phong thái hòa nhã. Ông nhìn Cự Khuyết nói: “Chớ có ham chơi nữa, lần này lệnh cho ngươi xuống trần một chuyến, đi thực hiện một sứ mệnh.” Cự Khuyết hỏi: “Sứ mệnh gì vậy, thưa ngài?” Tiên trưởng nói: “Ngươi đến Thiên Hồ, mang theo cỏ Tứ Bán, đi xuống Ma Thiên quốc ở dưới hạ giới, tìm địa mạch của nó.” Cự Khuyết nói: “Địa mạch ư! Dễ tìm thôi mà, nhất định là ở quanh kinh thành đó.” Tiên trưởng liếc nhìn nó, Cự Khuyết vội ngậm miệng. Tiên trưởng nói: “Khi ngươi tìm thấy địa mạch của Ma Thiên quốc, trên địa mạch có ba hoặc bốn điểm phát sáng, chính là địa nhãn. Trước lúc bình minh, ngươi phải đặt cỏ Tứ Bán vào điểm sáng nhất, rồi ở đó trông giữ ba ngày, không được để cho bất kỳ sinh linh nào làm phiền đến cỏ Tứ Bán. Ba ngày sau, nguyên thần của cỏ Tứ Bán sẽ xuất ra, lúc này ngươi hãy mang nó về, thì sẽ lập được đại công.” Cự Khuyết mừng rỡ nói: “Trần gian sắp động thổ khởi công, lại phải phiền đến Cự Khuyết ta ư! Xem ra lần này động thổ không phải là nhỏ, cần phải tu sửa đến mấy thứ đây! Nếu không địa mạch sao lại có ba bốn con mắt được chứ?” Tiên trưởng nói: “Đừng nhiều lời nữa, tóm lại là không thể thiếu ngươi được, ngươi may mắn hơn sư huynh của ngươi đó.” Cự Khuyết mở to mắt, chớp chớp, vươn đôi cánh, rồi khép miệng lại hạ giọng nói: “Sư huynh thì sao?” Tiên trưởng nói: “Hắn đi tìm quả tiên cho ngươi rồi.” Cự Khuyết vui mừng thốt thành tiếng, đắc ý nhảy vài bước, nói: “Đã lâu rồi mình không được ăn quả tiên, đợi mình quay về sẽ từ từ thưởng thức.”
Cự Khuyết đi đến Thiên Hồ, vắt cỏ Tứ Bán lên cổ mình, rồi bay xuống hạ giới. Nó bay đến Ma Thiên quốc, tìm được địa mạch, nhìn thấy địa nhãn của địa mạch, trước lúc bình minh, nó đặt cỏ Tứ Bán vào địa nhãn sáng nhất, sau đó dùng miệng thổi khí, mây trắng nhanh chóng che phủ nơi này. Bốn cái lá của cỏ Tứ Bán kéo dài đến bốn hướng khác nhau với tốc độ rất nhanh. Cự Khuyết giương đôi cánh, che kín nơi cỏ Tứ Bán vươn đến, cỏ Tứ Bán kéo dài đến đâu, đôi cánh của Cự Khuyết cũng vươn dài theo đến đó.
Sáng hôm đó, Ma Lạc tỉnh dậy, phát hiện phía nam kinh thành có làn sương trắng vuông vức, ngay ngắn, anh cảm thấy kỳ lạ. Ma Thái nói: “Em nhìn thấy chỗ sương trắng đó có tấm màn như làm bằng lông chim vậy.” Văn Khương nói: “Có lẽ là Thần linh muốn hiển thị điều kì diệu nào đó!”
Sương trắng phía nam kinh thành ngày càng lan rộng, Ma Lạc phát cáo thị, ra lệnh không cho bất kỳ ai đến gần đám sương mù trắng đó, sau đó tự xem xét lại bản thân, không tìm được chỗ nào sai sót, anh bèn đi đến Thần điện khấu bái Thần linh, trong tâm mới yên định được. Sáng sớm ngày thứ ba, Ma Lạc mơ thấy chỗ làn sương trắng bồng bềnh có một tòa kim tháp, bốn phía kim tháp có bốn vệ sĩ mặc kim giáp canh giữ, sau khi tỉnh lại Ma Lạc ngộ ra: “Nên đánh dấu lại bốn góc của làn sương trắng đó, đây nhất định là nơi nên xây dựng tháp.” Buổi sáng, Ma Lạc dẫn theo bốn vệ sĩ mặc áo giáp đi gặp thầy tế Thần điện là Mông Cương, anh bày tỏ suy nghĩ của mình.
Mông Cương nghe xong liền nói: “Hai ngày nay hạ thần thường nhìn thấy một làn khí màu trắng không ngừng kéo dài, nhưng lại không nhìn thấy rõ thứ gì bên trong, trong lúc mơ màng lại cảm thấy trong đó tựa hồ như có một con chim trắng tôn quý, lặng lẽ đứng ở đó, vô cùng thanh thản, thần cảm thấy nó mang đến một loại tín tức tốt lành. Quốc vương muốn sai người đi canh giữ bốn góc của làn sương đó, thần thấy có chút không thỏa đáng, xin ngài đợi chờ thêm, để thần đi khấu hỏi Thần ý.” Mông Cương trịnh trọng khấu bái trước tượng Thần, sau một hồi thì đứng dậy, tỏ vẻ khoan khoái, ông đi đến nói với Ma Lạc: “Hạ thần nhìn thấy vị Thần triển hiện ra một cảnh tượng: khi mặt trời mọc, có bốn vệ sĩ đứng ở bốn hướng, thần cảm thấy thời điểm thích hợp là sáng sớm ngày mai khi mặt trời mọc, ngài hãy sai người đi canh giữ bốn góc của đám sương mù trắng đó.”
Sáng sớm ngày thứ tư, Cự Khuyết nhìn thấy nguyên thần của cỏ Tứ Bán xuất ra, nó nhanh chóng thu lại sương mù, đặt nguyên thần của cỏ Tứ Bán lên lớp lông mềm mại trên lưng mình, rồi mang theo cỏ Tứ Bán bay đi. Cự Khuyết ngoái đầu nhìn lại mặt đất lần nữa, nhìn thấy bốn vệ sĩ đang canh giữ bốn phía mà sương mù đã từng che phủ, nó không ngớt kinh ngạc, trong tâm nghĩ: “Vị quốc vương này thật tài giỏi, thời gian trước đã không làm phiền đến ta, xong việc rồi, lại còn biết trấn giữ bốn hướng, thật là không tầm thường.”
Sau khi Cự Khuyết trở về, tiên trưởng nói: “Ngươi đem nguyên thần của cỏ Tứ Bán đặt trong Thiên Hồ của Thánh mẫu Tiên Thảo, để nó được nghỉ ngơi, đừng có làm phiền nó, khi trở về ngươi có thể ăn quả tiên mà sư huynh ngươi đã đi lấy về cho ngươi rồi đó.” Cự Khuyết nghe xong vô cùng vui mừng, trong tâm nghĩ: “Đã 500 năm rồi mới được ăn quả tiên một lần, lại do sư huynh tìm được, thật tuyệt quá.” Trong tâm Cự Khuyết cũng biết rằng, không cần mất nhiều thời gian để cỏ Tứ Bán có thể mọc lá mới, lúc đó cỏ Tứ Bán có thể ra chơi với nó.
Sư huynh Hán Đạm của Cự Khuyết cũng là một con chim thần, toàn thân màu đen, trên cổ có đeo một cái vòng màu trắng, cái mỏ màu đỏ. Năm đó từng cá cược với Cự Khuyết, xem ai có thể bảo vệ cỏ Tứ Bán. Hán Đạm nhận thử thách trước. Chúng tiên nhân huyễn hóa ra các cảnh tượng mê hoặc Hán Đạm, Hán Đạm trong cảnh tượng thứ tám – sau khi quả tiên xuất hiện, nó liền rời khỏi cỏ Tứ Bán. Đến lượt khảo nghiệm Cự Khuyết, bởi vì Cự Khuyết và cỏ Tứ Bán thường hay chơi cùng nhau, đồng thời thấy mình cần bảo vệ cỏ Tứ Bán, trong tâm rất vui mừng, bèn vô cùng cảnh giác. Các vị tiên biến hóa ra tổng cộng 26 loại cảnh tưởng khác nhau để mê hoặc Cự Khuyết, Cự Khuyết đều đứng yên bất động. Chúng tiên nhất chí cho rằng Cự Khuyết có thể bảo vệ cỏ Tứ Bán. Vì thế mà Cự Khuyết trở thành Thần điểu bảo vệ các công trình kiến trúc trên mặt đất. Khi xây dựng cung điện hoặc chùa chiền quy mô lớn, địa điểm và phương vị hầu hết đều có liên quan đến Cự Khuyết. Còn Hán Đạm trở thành Thần điểu bảo vệ các công trình kiến trúc trên mặt nước. Khi Cự Khuyết chấp hành Thiên mệnh, cỏ Tứ Bán hiệp trợ Cự Khuyết xác định phạm vi và kích thước của các công trình trên mặt đất, còn Cự Khuyết thì bảo hộ cỏ Tứ Bán khỏi bị quấy nhiễu.
Một vị thần có tầng thứ rất cao trong Tam Giới tên là Mão Tượng Thiên Quân, mặc áo bào rộng màu tím, trên áo bào có hình tinh vân đang chuyển động, phía sau gáy có “Thiên thời kế”. Thiên thời kế gần giống hình tròn, do 12 văn tự sắp đều thành một vòng tròn, khi một trong 12 văn tự đó bắt đầu phát sáng, hơn nữa, khi nó càng ngày càng sáng thì sẽ có thiên tượng nào đó xuất hiện. Đối ứng với ký tự này, tinh vân trên áo bào của Tinh Quân cũng đang phát sinh biến hóa; nhỏ thì là biến hóa của vài tinh tú, lớn thì là biến hóa của toàn thiên thể, tất cả đều triển hiện ra trên tinh vân. Thiên Quân còn có một bảo bối nữa gọi là Càn Khôn Hoảng, đó là một chiếc gương hai mặt, ngoài rìa gương thì mỏng còn ở giữa thì dầy, nó có thể cho thấy những sự việc sắp xảy ra trong tương lai, một mặt có thể nhìn thấy cảnh tượng ở Thiên thượng, mặt kia có thể nhìn thấy cảnh tượng dưới hạ giới. Lần này, một văn tự trên Thiên thời kế vừa sáng lên, Thiên Quân liền quan sát mặt gương, thấy trong gương hiển hiện ra kim tháp.
Vậy là mọi việc mà các vị thần tiên làm đều xoay quanh việc xây dựng tháp Phật, cũng đều là thuận theo Thiên ý mà làm.
PHẦN 6
Trước khi xây tháp, trong kinh thành Tất Thi xuất hiện một bài đồng dao: “Vượn có mật, diều hâu có gậy sức, hai bảo bối không giống nhau, vinh quang khắp thiên hạ thuộc về quân vương, phúc lộc thọ dài lâu.” Bài đồng dao lưu truyền rất nhanh, người ta cũng không hiểu lắm về hai câu đầu, nhưng sự việc nhanh chóng phát sinh, đã giải khai chỗ mê hoặc của mọi người.
Phía nam thành Tất Thi, trên ngọn núi cách đó hơn trăm dặm có một cây đại thụ, thân cây to đến nỗi ba người lớn mới ôm xuể. Một hôm, trời đang nắng bỗng có tiếng sét, cây đại thụ bị sét đánh gãy ngang thân, đúng lúc trên đỉnh núi có mấy người thợ săn nhìn thấy sự việc này. Sau khi cây đổ xuống, còn sót lại một đoạn ở giữa, lộ ra một thứ giống như cây gậy có màu vàng kim. Thợ săn Khảm Ưng[1] dẫn mấy người vây quanh cây, xem xét thứ màu vàng kim này, họ đều cảm thấy kỳ lạ. Khảm Ưng leo lên phần nửa cây chưa gãy, phát hiện ở giữa cây có một cây gậy màu vàng kim, rất đẹp và rắn chắc. Sau khi Khảm Ưng leo xuống, anh bắt tay cùng mọi người bổ đoạn cây này ra để lấy cây gậy ở giữa. Cây gậy này dài khoảng 3,66m, đường kính khoảng 15cm, vô cùng cứng cáp, vung nó lên có thể dễ dàng đánh gẫy cả một cái cây to. Mọi người thấy vậy rất thích thú như nhặt được báu vật, vội vã trở về thành dâng nó lên quốc vương. Ma Lạc cầm nó trong tay, bỗng cảm thấy thân thể chấn động, khí khái tăng thêm, anh rất thích nó, nên gọi nó là Hoàng Kim trượng.
Cùng lúc đó, Ma Thiên quốc còn có một sự thay đổi nữa, trên một ngọn núi cách kinh thành khoảng 400 dặm, xuất hiện một chỗ lõm ở giữa núi, một hôm chỗ lõm đó đột nhiên sụt xuống, tạo thành một cái hố sâu. Một người thợ săn có biệt hiệu là Nao Viên[2] leo vào trong hố sâu đó, dưới đáy hố anh ta tìm thấy một thứ hình tròn tròn đen đen, kích cỡ giống như quả bóng rổ, dùng tay sờ thì thấy có độ đàn hồi, dùng ngón tay ấn thì có vết lõm, bỏ tay ra nó nhanh chóng khôi phục lại nguyên dạng. Nao Viên cảm thấy kỳ lạ, nhưng không rõ nó là vật gì, anh liền bỏ nó vào trong túi rồi khoác lên vai mang ra ngoài. Trở về nhà, anh mang nó ra cho mọi người xem, mọi người không biết dùng nó làm gì. Một người lớn tuổi cho rằng bên trong đó có bảo bối nào đó. Thế là Nao Viên quyết định mang nó đến kinh thành dâng tặng cho quốc vương. Ma Lạc sai người tìm hiểu về nó, nhưng cũng không ai biết. Một hôm, một người có dung mạo xấu xí đến, tự xưng là Địa Xú, nói có thể nhận biết được vật này. Ma Lạc sai người dẫn anh ta vào. Người này nhìn thấy Ma Lạc liền cung kính nói: “Vật này tên ‘Điểu Tôn’, bên trong có chứa một túi mật màu vàng kim, bất kỳ dụng cụ sắc bén nào trong thiên hạ cắt gọt nó cũng không làm nó khuyết đi phân nào. Vật này được cất trong núi không biết đã bao nhiêu năm rồi, nó vẫn luôn được Thiên Anh đồng tử trông coi, người có được túi mật này sẽ trở thành anh hùng trong thiên hạ. Xin quốc vương hãy sai người mở vật này ra để lấy túi mật bên trong, sau đó che kín bằng tấm lụa vàng, không để ánh sáng chiếu vào nó. Vật này có thể tăng thêm sức mạnh cho binh khí của quốc vương, làm kẻ địch phải run sợ, xin chúc mừng quốc vương.” Ma Lạc hỏi: “Ai có thể tách vật này ra?” Địa Xú nói: “Mông Cương là người có thể làm được.” Vừa dứt lời, Địa Xú đột nhiên biến mất, Ma Lạc hướng về phía Địa Xú biến mất mà quỳ xuống đất khấu đầu bái tạ.
Ma Lạc giao Điểu Tôn cho Mông Cương, Mông Cương mang vật này vào trong mật thất, dùng cây đao hình bán nguyệt kẹp chắc nó lại, rồi tách nó ra. Sau khi tách được nó ra, túi mật màu vàng kim bên trong cũng lộ ra, Mông Cương bỏ túi mật vào trong đĩa, rồi dùng vải lụa vàng che kín, và cất giữ nó trong mật thất. Trong lúc Mông Cương vẩy nước quét thần điện, ông hốt hoảng khi nhìn thấy một đồng tử hồn nhiên ngây thơ, trông rất khả ái, trên người mang theo cái túi màu vàng, trên đỉnh đầu có tết bím tóc, tay trái cầm mật Điểu Tôn, tay phải thì cầm bốn góc của tấm vải lụa vàng, đồng tử đang chơi đùa, trong lúc chơi đùa thì chạy đến dưới chân tượng chiến thần Lệ Thiên. Đồng tử ngước mắt lên nhìn, rồi hả hê nằm dưới chân tượng, lại còn ngó đầu về phía Mông Cương thè lưỡi ra trêu trọc nữa, dáng vẻ vô cùng tinh nghịch. Mông Cương cũng không kiềm chế được vui mừng. Ông ngộ được rằng nên đặt túi mật dưới chân tượng chiến thần Lệ Thiên. Sau đó, Mông Cương đi gặp Ma Lạc kể về việc đó. Ma Lạc nói: “Vật này được Thần tiên ban tặng, khanh lại được điểm ngộ nữa, vậy thì cứ theo đó mà làm.”
Hai ngày sau đó, Mông Cương có lúc nhìn thấy đồng tử đang bận làm gì đó dưới lớp vải lụa vàng, trong lúc ngồi tĩnh tọa, Mông Cương nhìn thấy đồng tử chia mật Điểu Tôn ra làm mười phần, lại còn không ngừng rót vào trong đó thứ gì nữa. Mông Cương muốn biết là việc gì, tâm vừa máy động, trong nháy mắt ông nhìn thấy đồng tử biến thành một hình tượng kim cương, bộ mặt màu vàng kim, thân mặc áo giáp vàng. Thì ra đồng tử này có ba loại thân thể biến hóa là Kim Khải, Ngân Khải và Đồng Khải. Kim Khải toàn thân mặc áo giáp màu vàng kim, trên trán lộ ra ba chấm tròn màu vàng kim; Ngân Khải toàn thân mặc áo giáp màu bạc, trên trán có hai chấm tròn; Đồng Khải toàn thân mặc áo giáp màu đồng, trên trán có một chấm tròn. Ba loại biến thân này có thể bảo vệ quân chủ nơi nhân gian, giúp quân chủ lập những chiến tích khác nhau trong chiến đấu. Kim Khải xuất hiện giúp quân chủ đánh chiếm thiên hạ và trở thành hoàng đế; Ngân Khải xuất hiện giúp quân chủ giữ gìn biên cương, không bị xâm lăng; Đồng Khải xuất hiện, giúp quân chủ bình định bọn phản loạn, quốc thái dân an. Người mà Mông Cương nhìn thấy chính là Kim Khải. Kim Khải nói: “Túi mật này có thể tăng thêm độ sắc bén cho binh khí, ta đã phân nó thành mười phần, mỗi khi quân vương tác chiến, ta sẽ biến một phần trở thành khí sắc bén, bao trùm lên binh khí của quân vương, bao phủ trên đầu các binh sĩ, làm kẻ địch không đánh mà tự ngã, khi sử dụng đồng thời với bảo bối Hoàng Kim Trượng, có thể không cần chiến đấu mà quân địch vẫn tự bại. Nhưng mỗi lần sử dụng, mật Điểu Tôn sẽ giảm đi một phần, sau mười lần sử dụng sẽ tiêu hao hết.”
Khi Mông Cương nghĩ đến Hoàng Kim Trượng, trong nháy mắt Tử Mạo kim cương xuất hiện. Tử Mạo kim cương có bộ mặt màu tím, toàn thân mặc áo giáp màu tím, ngài nói với Mông Cương: “Hoàng Kim Trượng là quyền trượng chí cao trong thiên hạ, lần này là ta tặng nó cho quốc vương, người trong thiên hạ nhìn thấy quyền trượng này, liền biết được sự uy nghiêm của nó. Cây trượng này chỉ có một mình quốc vương được sử dụng, các chư vương sau này không có được vinh diệu đó.” Mông Cương đem sự việc mình biết được nói với Ma Lạc, Ma Lạc trong tâm chấn động, vừa vui mừng lại vừa có cảm giác nặng nề khó nói nên lời.
Sáng sớm hôm đó Ma Lạc tỉnh dậy, đứng trên cao trong cung nhìn ra xa, mặt đất nơi xa xa kia tươi tốt um tùm. Bỗng Ma Lạc phát hiện mặt đất bằng phẳng ở phía Đông Nam vương cung xuất hiện một chỗ lồi lên, trong tâm anh vô cùng kinh ngạc, nghĩ đến việc tìm đá sử dụng cho việc xây tháp, liền vội vã dẫn tùy tùng đi tra xét. Không lâu thì đến nơi chỗ đất lồi lên, chỉ thấy chỗ lồi lên đó có vết nứt lớn, nhìn qua vết nứt đó, Ma Lạc nhìn thấy đá ở bên trong đó, không cầm được sự vui mừng, Ma Lạc cho rằng đây là sự ban tặng của thần linh, anh lập tức quỳ xuống khấu bái thiên địa thần linh. Sau đó lệnh cho người canh giữ chỗ đó, không ai được động đến tầng đá bên trong đó. Rồi Ma Lạc hạ lệnh truyền gọi các thợ nổi tiếng các nơi đến kinh thành. Rất nhanh các thợ thủ công nổi tiếng đã tụ tập tại kinh thành, Ma Lạc mở hình vẽ của kim tháp ra, cùng thương thảo với họ về việc xây tháp. Các thợ như Ban Đà, Thúc Nhã, Tá Luân, đều là những thợ thủ công nổi tiếng của Ma Thiên quốc. Trong số họ, có người đã từng vận dụng sự sáng tạo và khéo léo để xây dựng các kiến trúc trong cung điện; có người có thể tạo nên những công trình kiến trúc hòa hợp với thiên tượng một cách vô cùng chuẩn xác; còn có nhà điêu khắc Côn Luân hướng dẫn thợ điêu khắc những bức tượng Thần, Phật to lớn.
Lúc này người coi giữ lớp đá đến thỉnh báo, nói rằng thỉnh thoảng có thể nghe thấy tiếng “đôm đốp” vọng ra từ lớp đá, khi Ma Lạc tiến đến gần lớp đá thì cũng nghe thấy âm thanh như vậy, trong tâm kinh ngạc không hiểu có chuyện gì.
Ma Lạc chọn ngày tốt, tắm gội trai giới, sau khi lễ bái Thần Phật xong, Ma Lạc dẫn người đi mở lớp đá ra. Sau khi mở ra, chỉ thấy trong đó có những hòn đá bằng phẳng và vuông vắn, hoàn toàn tự nhiên. Ma Lạc không ngớt kinh ngạc, quỳ bái thần linh nói: “Trên có trời dưới có đất, chư vị Thần linh đã trông nom bảo hộ việc này và triển hiện thần lực, Ma Lạc xin tận tâm tận lực xây dựng tháp Phật, để không phụ Thần ý.”
Nhìn thấy đá, Ma Thái cũng vô cùng vui mừng. Bên cạnh một tảng đá có một số hòn đá đen bóng, khiến Ma Thái chú ý tới, cô sờ vào thấy vô cùng rắn chắc, cô bỗng nhớ lại giấc mơ lúc sáng sớm. Trong mơ Ma Thái thấy mình đang khuấy một loại dung dịch đến nỗi mồ hôi vã ra như tắm, dưới đáy nồi ngọn lửa bốc lên, mồ hôi cô rơi vào nồi dung dịch, bên cạnh nồi vẫn còn một số thứ đen bóng chờ cho vào nồi; trong mơ Ma Thái còn nhìn thấy Phấn Y thiếu nữ đang quét dung dịch đó lên trên đá. Những thứ đen bóng đang chờ để cho vào nồi trong giấc mơ đó, chính là loại đá mà cô đang nhìn thấy trước mắt. Trong đầu Ma Thái chợt lóe lên ý nghĩ: nên nung chảy loại đá này ra.
Ma Thái nói với anh trai một cách rất nghiêm túc: “Trong mơ em nhìn thấy mình đang nung chảy loại đá này, dung dịch của nó nhất định là để quét lên loại đá dùng để xây tháp Phật, giúp cho loại đá đó có thêm một lớp bảo vệ nữa.”
“Chắc chắn là Thần linh đang điểm hóa cho chúng ta, hơn nữa lại để em đích thân trộn loại dung dịch đó,” Ma Lạc cũng rất nghiêm túc nói với em gái. Hôm khởi công khai thác tầng đá đó, chủ tế thần điện Mông Cương đến nói với Ma Lạc rằng bình nhỏ màu xanh để thờ cúng trong thần điện mà tiên vương lưu lại phát ra tiếng động lớn. Mông Cương mời quốc vương và công chúa đến thần điện xem rõ là việc gì. Ma Lạc dẫn theo Ma Thái vội vàng đi đến thần điện, vừa vào đến thần điện, tiếng động trong bình lớn thêm, Ma Lạc lấy làm lạ, lập tức cùng Ma Thái quỳ xuống bái trước tượng Phật. Sau khi quỳ xuống, âm thanh bỗng dừng lại, chiếc bình xanh đột nhiên nứt ra, có hai luồng ánh sáng, một vàng một xanh phóng vọt ra ngoài. Ánh sáng màu vàng quấn chặt khuỷu tay phải của Ma Lạc rồi biến mất; ánh sáng màu xanh phóng thẳng đến trước trán của Ma Thái tạo thành hình chữ U khảm vào trán của Ma Thái sau đó cũng không thấy đâu nữa. Hai người đều kinh ngạc, nhưng lại không thấy có gì khác thường xảy ra. Hai anh em khấu tạ Thần Phật xong quay người rời đi.
Lúc đó, Mông Cương nhìn thấy ba bức tượng Phật đều nở nụ cười, trong tâm ông biết rằng vận nước tất hưng thịnh, trong tâm thuần tịnh, ông quỳ rất lâu trước tượng Thần, cầu khấn cho tháp Phật sớm ngày hoàn thành.
Bình thường, cứ cách 10 ngày Ma Lạc lại đích thân đi hái quả tươi đem về cho Ma Thái rửa sạch để dâng lên tượng Thần. Khi chuẩn bị xây tháp, Ma Lạc lại chọn ngày giờ tốt, tắm gội trai giới, rồi tự mình đi hái quả tươi, lại còn tự tay rửa sạch rồi đưa đến dâng thần điện, anh khấu bái Thần Phật nói: “Thần Phật vĩđại! Con là con trai của ngài, con tự cảm thấy tư chất bản thân bình thường, mà ngài lại cho con vinh diệu này, để cho người dân ủng hộ và yêu mến con, để cho bảo vật trong thiên hạ đều thuộc về con, để con gánh vác trách nhiệm xây dựng tháp Phật. Con biết rõ rằng sức người yếu ớt, mà sức mạnh của Thần thì vô cùng to lớn, cho nên con khẩn cầu sự bảo hộ và gia trì của Thần Phật, để việc xây dựng tháp Phật được thuận lợi và thành công. Con cũng xin Thần Phật giúp con tỉnh táo nhìn nhận sự việc, trau dồi đức hạnh, giáo hóa bách tính, để không cô phụ Thần ý.” Khấu bái xong, Mông Cương mời Ma Lạc vào trong tịnh thất (nơi Mông Cương tịnh tâm tu hành), Mông Cương mời Ma Lạc ngồi xuống, Ma Lạc từ chối, nói: “Tế tư tôn quý, mời ông ngồi xuống, xin tiếp nhận sự kính trọng của tôi đối với ông, tôi có lời muốn nói với ông, nên xin ông chớ có cự tuyệt.” Mông Cương lộ nét mặt nghiêm túc, trịnh trọng ngồi xuống. Ma Lạc quỳ một chân xuống trước mặt Mông Cương, nói: “Tế tư tôn kính, xin ông hãy nghe lời tôi nói, trước giờ tôi luôn cho rằng mình là một người tự tin, nhưng mấy hôm nay, tôi lại sinh ra tâm nghi hoặc, Thần đang chăm lo cho việc xây dựng tháp, tôi thật sự là người được Thần lựa chọn sao? Bảo vật thiên hạ đều được mang đến cho tôi, tôi trở thành vị vua được thế nhân dõi theo, có được sự vinh diệu trong thiên hạ, nhưng khi tôi tĩnh tâm lại và xem xét bản thân, lại cảm thấy bản thân mình chưa đạt được như kỳ vọng của Thần, chưa đạt được sự thuần tịnh và kiên cường, vì thế mà tôi thấy bất an vô cùng, sợ rằng giao phó của Thần bị dây dưa kéo dài thời gian vì tôi, vì lẽ đó mà tôi vô cùng lo lắng. Tôi coi ông là người giống như phụ vương, không chỉ vì ông đối đãi với tôi thân thiết, mà quan trọng là ông thông hiểu Thần ý, ông là vị sứ giả của Thần tại nhân gian. Tôi vô cùng tôn kính ông, xin ông chỉ dẫn cho tôi, giúp đỡ tôi, hy vọng những dạy bảo của ông làm tôi có đủ sự kiên cường và thuần tịnh, để tiếp tục hoàn thành sự giao phó của Thần.”
Mông Cương nghe xong liền đứng dậy, bước đến gần Ma Lạc, hai tay đặt lên đôi vai của Ma Lạc, nói: “Ngài đã tín nhiệm tôi như vậy, coi tôi giống như phụ vương ngài, vậy thì tôi cũng sẽ coi ngài như con trai của tôi vậy! Thực ra chúng ta đều là con của Thần. Trong thế gian này, sự vận chuyển của vạn sự vạn vật, tất cả đều nằm trong sự an bài của Thần, Thần ý đã chọn trúng ngài, có lẽ là vì cách đây rất lâu, ngài đã chủ động lựa chọn theo an bài của Thần. Nhưng sự việc trên thế gian thay đổi không ngừng, cho nên chúng ta đã sớm quên rồi, mọi thứ phát sinh bây giờ, là Thần đang nhắc nhở chúng ta, để giúp chúng ta thực hiện lựa chọn khi xưa của chúng ta. Bởi vì đó là lựa chọn khi xưa của ngài, nên Thần đã sớm để sinh mệnh của ngài khác với mọi người, sự cấu thành sinh mệnh của ngài có nhân tố của Thần ban tặng, vì vậy tâm của ngài nhất định cần phải thuần tịnh, cần phải kiên cường, không nên có chút nghi hoặc nào, hãy biến sự nghi hoặc của ngài thành động lực để truy cầu sự hoàn thiện! Hãy dụng tâm làm cho tốt việc của mình cần làm, tôi tin rằng Thần đang bảo vệ tất cả, mọi việc sẽ thuận lợi.” Mông Cương vừa nói dứt lời, liền đỡ Ma Lạc dậy, Ma Lạc vẫn chìm trong suy nghĩ về những lời Mông Cương vừa nói, hồi lâu không nói lời nào.
[1] Ưng (鹰): con diều hâu
[2] Viên (猿); con vượn
PHẦN 7
Ma Lạc chuẩn bị xây tháp, khắp trong nước, ông chọn ra 800 tráng sĩ chưa kết hôn vẻ ngoài đứng đắn, phẩm hạnh, khí chất cao thượng, họ đều cao từ 5,2m trở lên, người thời đó gọi các tráng sỹ này là Uy Ni Đạt (có nghĩa là những dũng sỹ kiên cường, dũng mãnh của đất nước). Ma Thái cũng chọn ra 100 thiếu nữ đoan trang, thuần khiết để giúp mình chà các tảng đá, họ được gọi là các Mỹ Ni Giai (có nghĩa là thuần chính, trong trắng). Về phía tây nơi xây dựng tháp, Ma Lạc cho xây một căn nhà gỗ để các Uy Ni Đạt và Mỹ Ni Giai nghỉ ngơi, các Uy Ni Đạt ở những căn phòng đơn sơ bên trái, còn các Mỹ Ni Giai ở căn phòng bên phải, trước cửa có trồng hoa trang trí. Ở giữa còn có hai căn phòng khác để Ma Lạc và Ma Thái nghỉ ngơi, mọi người đều cảm thấy trong tâm dường như có một đóa hoa đang chờ được nở ra, tràn đầy niềm hân hoan và hy vọng.
Tại vùng phía đông nam của Ma Thiên quốc có một vị lão nhân tên là Ma Hi. Ông 89 tuổi, thân thể cao lớn cường tráng, dáng vẻ quắc thước, là người đức cao vọng trọng. Từ khi 80 tuổi, Ma Hi cách 10 ngày mới ăn một bữa, ngủ một lần, hàng ngày đều niệm Phật hiệu “Cự Hỷ Lạc Phật”. Đêm đêm ông đả tọa niệm Phật, thường nhập định vào trạng thái mỹ diệu, vô vi, cảm thấy thân thể rất to lớn và uy dũng. Thỉnh thoảng nước bọt tuôn ra trong miệng ông, cảm giác ngòn ngọt, đầu gối có cảm giác ấm áp, mềm mại, thân thể thoải mái, nhẹ nhàng. Cho nên Ma Hi có khi cả đêm đả tọa, nét mặt tươi trẻ, an hòa, trong lòng trào dâng niềm vui vô hạn.
Một buổi tối, khi đang ngủ, ông mơ thấy kinh thành sắp xây dựng một công trình. Công trình này phát ra ánh kim quang chói lọi. Khi tỉnh lại, thắp hương trước tượng Phật, ông lại nhìn thấy cảnh tượng trong giấc mơ. Cảm thấy không thể bỏ qua cơ duyên này, ông quyết định phải đi xem quá trình xây dựng công trình tuyệt vời đó. Ông lập tức sửa soạn lên đường, hành tốc cả ngày lẫn đêm, ông đã đi rách chín đôi giày mới đến được kinh thành. Lúc ông đến kinh thành là vào buổi sáng sớm. Ma Hi tắm gội sạch sẽ, thay y phục chỉnh tể đi đến nơi xây tháp, ông ngồi ở gần đó niệm Phật hiệu. Không lâu sau, ông trông thấy quốc vương mặc y phục màu vàng và quan tư tế mặc y phục màu đỏ thẫm, cùng đoàn người vây quanh đi tới, Ma Hi vội vàng đứng dậy.
Ma Lạc đào năm xẻng đất ở mỗi phía đông-nam-tây-bắc và trung tâm (trong các công trình lớn, quốc vương thường đào năm xẻng đất ở mỗi hướng, gọi là đặt nền móng). Mỗi lần đào đất, vị lão nhân đều quỳ lạy. Sau khi Ma Lạc đào xong vị trí ở giữa, có người kể sự việc này cho quốc vương nghe. Quốc vương và quan tư tế liền đi về phía lão nhân, lão nhân trông thấy quốc vương vội quỳ bái hành lễ (quỳ bái là một nghi thức hành lễ trang trọng, nam giới đặt tay trái lên phía trước vai phải, lòng bàn tay hướng vào trong, tay phải đặt ở sau lưng, lòng bàn tay hướng ra ngoài, biểu thị không cầm giữ thứ gì, cúi người hành lễ; nữ giới khi thấy quốc vương thì hai tay vén áo, tay trái ở ngoài, tay phải ở trong, đặt trước bụng bên trái, cúi người hành lễ).
Ma Lạc nâng lão nhân đứng dậy, hỏi tại sao lão nhân lại quỳ bái ở đây, lão nhân nói: “Khi quốc vương đào xẻng đất đầu tiên ở phía đông, tôi nhìn thấy một đồng tử mặc yếm đỏ, tết hai bím tóc, cổ đeo vòng đỏ, chân và tay đều đeo vòng lục lạc màu đỏ lấp lánh, bàn chân phát sáng, tay cầm dải lụa đỏ, nhảy nhót tung tăng. Khi quốc vương đào xẻng đất đầu tiên ở phía nam, tôi nhìn thấy xuất hiện một đồng tử đeo yếm màu xanh, tết hai bím tóc, cổ đeo vòng xanh, chân và tay đều đeo vòng lục lạc màu xanh lấp lánh, bàn chân phát sáng, tay cầm dải lụa xanh nhảy múa, đồng tử mặc yếm đỏ nhìn thấy cậu ấy thì vui mừng chạy tới, hai đứa trẻ cùng nhau chơi đùa. Khi quốc vương đào xẻng đất đầu tiên ở phía tây, tôi trông thấy một đồng tử mặc yếm màu tím, tết hai bím tóc, cổ đeo vòng tím, chân và tay đều đeo vòng lục lạc màu tím lấp lánh, bàn chân phát sáng, tay cầm dải lụa tím nhảy nhót. Khi quốc vương đào xẻng đất đầu tiên ở phía bắc, tôi nhìn thấy một đồng tử mặc yếm màu xanh lục, tết hai bím tóc, cổ đeo vòng xanh lục, chân và tay đều đeo vòng lục lạc màu xanh lục lấp lánh, bàn chân phát sáng, tay cầm dải lụa xanh lục nhảy nhót, đứa trẻ mặc yếm màu tím trông thấy cậu ta liền vui mừng chạy lại, hai đứa trẻ cùng nắm tay nhau vui đùa. Sau cùng, khi quốc vương đào xẻng đất đầu tiên ở giữa, tôi nhìn thấy một đồng tử mặc yếm màu vàng, tết hai bím tóc, cổ đeo vòng vàng, chân và tay đều đeo vòng lục lạc màu vàng lấp lánh, bàn chân phát sáng, tay cầm dải lụa vàng nhảy nhót. Bốn đứa trẻ nhìn thấy cậu ấy thì tươi cười vây quanh, nói mấy câu xong thì ngồi đả tọa xung quanh cậu ấy. Tôi còn nhìn thấy từng tiểu đồng tử đang xoay chuyển, và tất cả cùng xoay chuyển, chuyển động nhanh đến nỗi Tôi nhìn không rõ là ai nữa, chỉ thấy một đóa hoa ngũ sắc đang nở ra. Tôi cảm thấy quốc vương có uy đức rất lớn mới xuất hiện hình ảnh kỳ diệu như vậy, cho nên tôi tới bái lạy ngài”.
Mông Cương nghe xong cảm động nói: “Chẳng phải là ngũ phương đồng tử đã xuất hiện rồi sao?” Ma Lạc nhìn Mông Cương tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu. Mông Cương nói: “Hạ thần đã từng nhìn thấy trong sách cổ có ghi chép, trong các công trình kiến trúc lớn trước đây, có người đã nhìn thấy đồng tử mặc áo tím và đồng tử mặc áo xanh lục, tay cầm dải lụa màu tím và màu xanh lục nhảy múa, trong khi chuyển động, hai dải lụa quấn vào nhau tạo thành một đóa hoa, khi đóa hoa đang chuyển động, hai đồng tử bay vòng quanh đóa hoa, vô cùng mỹ diệu. Những công trình kiến trúc như vậy đều rất nổi tiếng và tồn tại rất lâu dài. Trong truyền thuyết cổ xưa còn lưu truyền một câu chuyện, nói rằng đến một thời kỳ nhất định Thần Tiên trên trời sẽ giáng hạ nhân gian, sau ba ngày linh hồn của Thần Tiên bị chim thánh mang đi, nơi mà Thần Tiên lưu lại sẽ xuất hiện ngũ phương đồng tử”. Nói đến đây, Mông Cương cảm thấy thân thể chấn động, một dòng năng lượng thông thấu toàn thân, ông nói với Ma Lạc: “Bệ hạ còn nhớ sương trắng kéo dài ba ngày ở kinh thành không?” Ma Lạc gật đầu. Mông Cương nói tiếp: “Công chúa nói nhìn thấy ở nơi sương trắng có một tấm màn giống như lông chim, hạ thần thấy đây chính là một con chim tôn quý màu trắng, đây hẳn là chim thánh được nói đến trong truyền thuyết”. Mông Cương ngừng lại một lát, tâm tình rất xúc động, mắt lấp lánh ánh lệ, tay phải đặt lên trước trán nói: “Hạ thần rất cảm động và cũng cảm thấy rất may mắn, xin cảm tạ Thần linh đã cho hạ thần được sống trong thời kỳ lịch sử khi mà những truyền thuyết cổ xưa này trở thành hiện thực. Trong truyền thuyết nói, khi ngũ phương đồng tử xuất hiện sẽ có một công trình kiến trúc bất hủ lưu truyền hậu thế. Đó là một công trình kiến trúc bất hủ để thờ phụng bậc Thánh giả – Ngài có thể cứu độ hết thảy con người thoát khỏi khổ nạn thế gian”. Lời của Mông Cương khiến những người xung quanh đều cảm thấy chấn động, đểu cảm thấy cần phải nỗ lực hết mình xây dựng thật tốt tháp Phật.
Ma Lạc chỉ huy Uy Ni Đạt đào nền móng, Mông Cương thường xuyên đến xem tiến trình xây dựng. Khi móng đào được 1/3, Mông Cương đứng ở trên, nhìn thấy năm đóa hoa ngũ sắc đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, tím đang xoay chuyển ở bên dưới, tỏa ánh hào quang. Lúc này Ma Lạc và Ma Thái đến bên cạnh ông, Mông Cương mời Ma Lạc và Ma Thái nhìn xuống dưới. Hai người nhìn một lúc, khuôn mặt Ma Thái lộ vẻ vui mừng. Ma Lạc cười hỏi Ma Thái: “Em nhìn thấy gì vậy?” Ma Thái mở to mắt nói: “Em nhìn thấy năm tiểu đồng tử xuất hiện ở đông tây nam bắc và ở giữa, đây chính là ngũ phương đồng tử đã từng nói đến sao?” Mông Cương nói: “Công chúa nhìn kỹ xem”. Ma Thái nhìn kỹ, tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Ta nhìn thấy tại năm vị trí vừa rồi có năm đóa hoa sen ngũ sắc đang xoay chuyển, màu sắc tuyệt đẹp! Có màu đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, tím, chao ôi, những bông hoa đang bay lên kìa, chúng tỏa ra ánh hào quang rực rỡ”. Mông Cương nhìn Ma Thái có vẻ suy tư. Ma Lạc hỏi Mông Cương: “Tư tế, khanh nhìn thấy gì vậy?”. Mông Cương nói: “Hạ thần nhìn thấy năm đóa hoa sen đang xoay chuyển, tỏa ánh hào quang. Được phúc phận chứng kiến Thần tích triển hiện thế này, hạ thần càng cảm thấy trọng trách nặng nề, chúng ta nhất định phải tận tâm tận lực xây dựng kim tháp”. Ma Lạc gật đầu.
PHẦN 8
Khi móng của tháp Phật được đào xong, Mông Cương nhìn thấy trong đó có một đóa hoa sen ngũ sắc lớn đang xoay chuyển, từ trong đóa sen bay ra các nàng tiên mặc áo rực rỡ sắc màu, cầm các loại pháp khí tỏa ánh hào quang vô cùng rực rỡ. Sau khi nhìn thấy cảnh tượng này, Mông Cương kiến nghị Ma Lạc lệnh cho các Uy Ni Đạt vận chuyển đá, còn mình và Ma Thái lần lượt ra phía bắc và phía nam, tĩnh tâm đả tọa quan sát, không cho phép bất cứ ai can nhiễu, Ma Lạc đồng ý.
Mông Cương ở phía nam còn Ma Thái ở phía bắc, hai người tịnh tâm đả tọa.
Hai ngày sau, Mông Cương trông thấy năm đóa hoa sen biến thành hàng vạn bông sen vàng, hàng vạn bông sen vàng lại hợp thành một đóa sen vàng lớn, sen vàng lại biến thành một đài sen có bảy tầng, đài sen tiếp tục thăng lên, lên đến giữa trời thì xuất hiện một Kim Phật từ trên trời hạ xuống, trong định Mông Cương biết rằng đây là Kim Bích Tôn Giả. Tôn Giả đứng trên đài sen, từ bi nói: “Kim Bích huy hoàng, Kim Bích huy hoàng”. Nói xong, tất cả cảnh tượng dần dần biến mất. Mông Cương giải ấn xuất định, bái tạ Thần linh thiên địa, sau đó đứng dậy, chầm chậm đến trước mặt Ma Thái.
Ma Thái đang tịnh tâm đả tọa, khuôn mặt phảng phất nụ cười, thuần khiến như một hài nhi mới chào đời. Một lát sau cô mở to mắt nhìn thấy quan tư tế, cười nói: “Ta có thể làm việc của ta rồi.” Mông Cương gật đầu, nụ cười tràn đầy thân ái.
Ma Thái nhìn Mông Cương, buột miệng nói: “Ta cảm thấy nên tôn kính ông, nhưng sự tôn kính của ta thường mang theo cảm giác thân thiết, ta cảm thấy ông giống như phụ vương từ bi của ta vậy.” Mông Cương nói: “Báu vật trong thiên hạ đều ở trước mặt thần, thần cảm thấy sự thuần khiết của công chúa mới là thứ quý báu nhất. Tôn kính là điều mà con người nên có, thân thiết là bởi vì tuổi của thần xấp xỉ tuổi phụ vương của công chúa. Thần đã 43 tuổi rồi, còn công chúa mới 15 tuổi. Dìu dắt và bảo vệ công chúa là trách nhiệm của thần. Chúng ta đi tìm huynh trưởng của công chúa thôi.”
Ở phía xa, Ma Lạc đứng trong sương mù buổi sáng sớm, im lặng chờ đợi. Nhìn thấy em gái mặc áo màu tím cùng quan tư tế mặc áo đỏ thẫm vô cùng uy nghiêm và trang trọng đang tiến về phía mình, anh bất giác cảm thấy hai người này là những người vô cùng quan trọng trong cuộc đời mình, đáng được anh tôn kính và quý trọng. Cảm giác đột ngột này khiến Ma Lạc rất cảm động, nước mắt chực trào ra, anh vội bình tĩnh lại, lấy tay lau nước mắt.
Quan tư tế và Ma Thái nhanh chóng bước đến, Ma Lạc vội ra đón, quỳ gối hành lễ trước quan tư tế, sau đó hỏi hai người với đầy vẻ mong đợi.
Mông Cương nói: “Thần nhìn thấy năm đóa hoa sen biến thành vạn đóa sen vàng, vạn đóa sen vàng lại hợp thành một bông sen vàng lớn, sen vàng lại biến thành đài sen bảy tầng. Đài sen bay lên giữa trời thì một vị Kim Phật từ không trung hiện ra, trong định thần biết đó là Kim Bích Tôn Giả. Tôn Giả đứng trên đài sen, từ bi nói: “Kim Bích huy hoàng, Kim Bích huy hoàng”.
Ma Thái nói: “Em trông thấy tiên nữ cười với em, tay cô ấy vừa khẽ động, em liền thấy một bong bóng nước màu vàng bay về phía mình, bong bóng nước hạ xuống biến thành rất to lớn, bao bọc lấy em, em cảm thấy mình bồng bềnh trong đó, rất thoải mái, nên cứ ngồi ở đó cho đến khi nghe thấy giọng nói: “Kim Thủy ương Nương, Kim Thủy Nương Nương”, em lập tức nhớ ra mình nên dung luyện dung dịch đá đen, trạng thái đó liền biến mất.”
Mông Cương hai tay hợp thập trước ngực nói: “Công chúa đã nhìn thấy Kim Thủy Nương Nương, còn thần nhìn thấy Kim Bích Tôn Giả, trong sách cổ nói: Công trình kiến trúc vĩ đại truyền cho hậu thế có vô số Thần tiên đến giúp đỡ, trong đó có Kim Thủy Nương Nương, trong kim thủy của cô có năm loại kim loại, còn có một vị là Kim Bích Tôn Giả, hai vị Thần Tiên này không dễ xuất hiện. Thần còn nghe trong truyền thuyết cổ xưa lưu truyền một câu nói thế này: “Kim Bích huy hoàng, Kim Thủy Nương Nương, nghe thấy tên này, mau chóng xây tháp”, hai vị Thần Tiên này xuất hiện thì chính là lúc nên xây tháp Phật rồi, hôm nay công chúa hãy chuẩn bị luyện đá đen đi thôi.”
Ma Lạc lại quỳ xuống hành lễ trước Mông Cương, cảm động nói: “Hỡi quan tế tư tôn quý, ngài thông hiểu Thần ý, ngài biết hết thảy truyền thuyết từ xưa đến nay, trí tuệ ngài thật bác đại, tầm nhìn xa trông rộng của ngài dẫn dắt ta và thần dân, ta nguyện nghe theo sự chỉ dạy của ngài.”
Mông Cương nhìn Ma Lạc nói: “Thưa quốc vương tôn quý, ngài là một vị vua trí tuệ, dũng cảm, chính trực, nhân ái, phàm là việc thần biết và liên quan đến vận mệnh quốc gia thì thần sẽ không do dự mà nói cho ngài. Thần mong rằng vận nước thịnh vượng, mong rằng quốc vương và công chúa tiếng tăm vang xa.” Ma Lạc lại bày tỏ sự kính trọng với quan tư tế.
Ma Lạc chỉ huy người vận chuyển đá đen đến, Ma Thái mặc y phục màu tím, trên đầu đeo một dải lụa vàng chuẩn bị luyện đá.
Lúc đó trên trời Thần Tiên tụ hội, những Thần Tiên liên quan đến việc này đều đến giúp đỡ.
Tử Âu Kim Cương mang một bình nước màu tím, bên trong có nước vàng, đổ ra một chút, nước vàng hóa thành hơi nước phủ một lớp trên nồi, tăng độ cứng cho nồi. Một vị nữ thần mặc áo màu tro, khuôn mặt như ngọc trắng, búi tóc xoắn ốc, trán có một chấm son chu sa, tay cầm bình màu trắng, đằng sau có một bình ngọc trắng, đây là Thạch Hóa tiên nữ. Cô trông thấy đá đã bỏ vào nồi, bèn dốc miệng bình trắng xuống, một chút bột trắng rơi vào nồi đá, tiên nữ lại dốc bình trắng xuống, đổ ra thứ dung dịch trong suốt, chảy vào nồi, hai thứ này có thể giúp tăng nhanh tốc độ dung luyện đá. Sau đó, Hỏa Thần phóng ra lửa vô hình mạnh mẽ, Phong Thần từ trong tay áo phóng luồng gió xuống đáy nồi, Đại Luyện Kim Cương từ trên không trung rải các hạt châu dính đá xuống.
Ma Thái đứng trước nồi, cảm thấy một luồng hơi nóng, mồ hôi nhanh chóng tuôn đầy mặt. Đại Vô Hoa Tiên đứng trên không trung nhìn Ma Thái cất tiếng nói, trước trán Ma Thái đột nhiên có một vầng hào quang lấp lánh, hào quang không ngừng chuyển động, lần lượt phóng ra năm màu đỏ, vàng, lục, lam, tím. Hào quang thấm vào mồ hôi, trong mồ hôi cũng đầy màu sắc giống như những hạt châu ngũ sắc rơi vào trong nồi.
Vầng hào quang trước trán Ma Thái được phát ra từ đan ngũ sắc của Đại Vô Hoa Tiên, đan ngũ sắc là loại đan cao cấp nhất trong các loại đan, Đại Vô Hoa Tiên đã trải qua năm tháng, tập hợp ánh sáng năm màu đỏ, vàng, lục, lam, tím mới luyện thành.
Ma Thái vốn là Ngũ Thái Liên Hậu trên trời chuyển sinh thành, từ lúc sinh ra chưa từng chảy mồ hôi. Các Thần Tiên trên trời thấy trên thân thể Ma Thái có đóa sen lớn, trên mỗi cánh hoa sen lại có vô số hoa sen nhỏ, những bông sen nhỏ này tự xoay chuyển cùng hoa sen lớn, lúc mở lúc khép, tạo thành một cơ chế vận chuyển trên thân thể Ma Thái. Cho nên trong mắt các Thần Tiên, Ma Thái chính là một thế giới thanh khiết. Các bong bóng nước của Kim Thủy Nương Nương dày đặc tạo thành một lớp sương mù bao trùm lấy Ma Thái. Khi Ma Thái khuấy trộn dung dịch, mỗi bông sen nhỏ chuyển động lúc mở lúc khép, khi khép lại trong nháy mắt tạo ra một bong bóng nước tròn trịa, lóng lánh, các bong bóng nhỏ nảy tưng tưng lên trên người Ma Thái, khi đến mặt thì chúng vỡ ra biến thành những giọt mồ hôi. Mồ hôi hòa quyện với vầng hào quang trước trán Ma Thái, thần tiên gọi là kim thủy ngũ sắc, kết hợp với hạt châu dính đá giúp gia tăng độ kết dính. Khi quết lên đá có thể giúp cho đá tăng thêm độ rắn chắc gấp 10 lần. Cho nên, dung dịch đá đen đã được dung nhập rất nhiều nhân tố của thiên thượng.
PHẦN 9
Trong khi đả tọa, Mông Cương trông thấy Thần Phật đầy trời, họ đều đang chăm chú nhìn vào kinh thành của Ma Thiên quốc. Mông Cương biết rõ các vị Thần đang trợ giúp việc xây dựng tháp Phật, do vậy ông đã thỉnh cầu quốc vương hạ lệnh cho thần dân cả nước thành tâm niệm Phật, cầu trời khấn Phật phù hộ, gia trì cho việc xây dựng tháp Phật.
Ma Lạc chỉ huy các Uy Ni Đạt vận chuyển đá đến chân tháp, Ma Thái chỉ huy các Mỹ Ni Giai dùng dung dịch đá đen bôi lên đá. Ma Lạc cùng các thợ thủ công thảo luận việc xây dựng tháp Phật, ai đề xuất ý kiến hay, Ma Lạc đều tiếp thu, rồi nhờ quan tư tế Mông Cương quyết định. Dưới sự chỉ đạo của Mông Cương, Ma Thiên quốc bắt đầu xây dựng tháp Phật.
Trong suốt thời gian xây tháp, quốc vương và vương hậu không ở cạnh nhau, vương hậu thành kính lễ Phật, các vương công đại thần và dân chúng đều noi theo, cả nước trên dưới một lòng quan tâm đến việc xây tháp Phật. Người dân Ma Thiên quốc rất thuần phác, nam giới nho nhã, lễ độ; nữ giới đức độ, đoan trang.
Việc xây tháp Phật hoàn toàn sử dụng sức người. Bốn người lực lưỡng nâng một tảng đá lớn để không bị phí sức. Sau khi đào móng xong, ở hai bên họ xây các bậc thang đi xuống đáy tháp, các Uy Ni Đạt vận chuyển đá xuống dưới đáy và bắt đầu xây tháp. Khi tầng thấp nhất được xây xong, người ta sử dụng gỗ kim cương (một loại gỗ rất dày và mịn) làm thành cái giá hình bậc thang bao xung quanh tháp, mọi người gọi là bậc thang lên trời. Các Uy Ni Đạt chân đi giày bện từ cỏ Tiên Lan, giày cỏ được bện rất chặt, có khả năng bám rất chắc, khi vận chuyển đá lên bậc thang, chân họ luôn có cảm giác như được nâng lên, họ gọi hiện tượng này là “chân đạp mây”, họ cho rằng đó là do Thần linh hỗ trợ.
Trong khi xây tháp, các nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng trong dân gian đều hội tụ tại kinh thành, họ muốn sáng tác ra những ca khúc hay nhất, hát lên những tiếng hát ngọt ngào nhất để ca ngợi công trình xây dựng tháp Phật vĩ đại. Mông Cương đích thân viết giai điệu và lời ca đưa cho nhạc sĩ và ca sĩ. Những bài hát này rất nhanh chóng được lưu truyền khắp Ma Thiên quốc. Trong đó, một bài hát khí thế hào hùng nhất là bài “Khúc hoan ca của Thần”, những bài hát khác như “Thần cứu độ thế nhân”, “Sự từ bi của Thần”, “Chờ đợi Thần đến” cũng khiến người nghe vô cùng xúc động. Một danh ca có giọng cao cất tiếng hát như những âm thanh từ trên thiên thượng đến, tiếng hát vang vọng khắp cả một vùng. Còn danh ca nổi tiếng với giọng trầm lại hát lên những âm thanh kỳ diệu giống như từ lòng đất vọng ra, cảm giác trầm ấm, vang vọng, tràn đầy sinh lực.
Thời tiết ở Ma Thiên quốc cũng rất đẹp, thường mưa vào buổi tối và nắng vào ban ngày. Nơi xây dựng tháp Phật thì không mưa nhưng khí hậu lại vô cùng mát mẻ. Ban ngày, Mặt trời trên đỉnh đầu không khiến người ta cảm thấy nóng bức, những làn gió mát thoang thoảng mang đến cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Những người cao tuổi nói: “Đó là chiếc ô của Kình Tản nương nương đang che mát cho họ”.
Giữa chừng khi các thợ thủ công nghỉ ngơi, những người phục vụ mang đến quả ngọt và nước suối mát. Những lời ca du dương cũng được cất lên khiến mọi người quên đi mệt mỏi, tâm tình trở nên vui vẻ.
Lúc nghỉ ngơi buổi tối, các Uy Ni Đạt và các Mỹ Ni Giai đều ngồi đả tọa, tĩnh tâm niệm Phật hiệu “Cự Hỷ Lạc Phật” trong khoảng một tiếng. Ban đêm, Tác Y tiên tử mặc áo màu trắng, quần màu xanh lục, tay cầm vân bình, trong bình có cỏ Vạn Đằng, nhìn thì rất bình thường nhưng khi lôi nó ra khỏi bình thì cây cỏ nhỏ trong phút chốc vươn ra hàng vạn nhánh, trên mỗi nhánh đều có một cái lá nho nhỏ, trên mỗi lá có một bọt nước óng ánh, khi Tiên tử phất nhẹ cỏ Vạn Đằng, các hạt bọt nước rơi xuống người các thợ thủ công, làm tiêu tan sự mệt mỏi của họ. Các Tiên Nhạc đồng tử mình mặc áo vàng, tay cầm nhạc khí với những nốt nhạc phát ánh vàng kim, họ bay vào trong giấc mộng của các thợ thủ công. Buổi sáng tỉnh dậy, các Uy Ni Đạt nói: “Nghỉ ngơi một đêm mà tràn đầy sinh lực”, còn có người nói họ nghe được những giai điệu âm nhạc mỹ diệu.
Khi xây tháp được năm tháng, vào một buổi tối nọ, Ma Lạc và Ma Thái nghỉ ngơi trên một cái đài gần khu vực xây tháp Phật. Ma Thái nói với anh trai: “Em cảm thấy tháp Phật đang lấp lánh ánh hào quang rồi”, ngừng một lúc Ma Thái lại nói: “Anh à, buổi tối thật đẹp, em cảm thấy trong tâm một cảm giác hân hoan và nhẹ nhàng, như đang bay trong không trung và quan sát mặt đất”. Ma Lạc mỉm cười gật đầu.
Tháp Phật xây được tám tháng, Mông Cương nói với Ma Lạc: “Tháp Phật xây xong, công đức vô lượng, quốc vương còn phải chuyên cần tu đức hạnh nữa”. Ma Lạc giật mình, hành lễ nói: “Quan tư tế tôn quý, nếu đức hạnh của ta có gì khiếm khuyết, xin ngài hãy lập tức cảnh báo ta”. Mông Cương nói: “Không phải như vậy, trong khi ngồi tĩnh tọa, thần đã nhìn thấy ba bức họa, bức họa thứ nhất vẽ cảnh tháp Phật xây xong có chim phượng hoàng bay vòng trên không trung. Bức họa thứ hai vẽ cảnh tháp Phật xây xong, vạn dân chúng quy thuận. Bức họa thứ ba vẽ cảnh tháp Phật xây xong, mùa màng bội thu, trong không trung xuất hiện ngàn vạn điềm lành. Thần cho rằng tháp Phật xây xong thì Thần Phật sẽ ban cho Ma Thiên quốc nhiều phúc báo hơn nữa, cho nên quốc vương càng phải chuyên cần tu đức hạnh, giáo hóa dân chúng”. Ma Lạc gật đầu.
Khi tháp Phật sắp xây xong, Ma Lạc nằm mơ thấy tay mình đặt đá lên đỉnh tháp. Tỉnh dậy, Ma Lạc quyết định làm theo điểm hóa của Thần linh đặt đá lên đỉnh tháp. Thế là chàng dậy thật sớm, đích thân đi hái hoa tươi, tắm rửa sạch sẽ xong dâng hoa lên điện Thần, lễ bái Thần linh rất lâu, khẩn cầu Thần Phật phù hộ.
Thần dân biết tháp Phật sắp xây xong nên từ sớm đã tập trung đứng xem xung quanh tháp Phật. Họ thấy quốc vương mặc trang phục giản dị nên rất kinh ngạc, sau đó họ nhanh chóng biết rằng quốc vương muốn đặt đá lên đỉnh tháp Phật. Lúc đó thần dân vô cùng xúc động, họ chờ đợi mọi việc sắp xảy ra, trong tâm lặng lẽ cầu nguyện cho quốc vương.
Ma Lạc chọn ra bốn tráng sĩ trợ giúp, khi an vị trên đỉnh tháp, đá lớn được chuyển lên, Ma Lạc trong tâm khẩn cầu Thần linh phù hộ, tâm trí thuần khiết, toàn tâm vào việc đặt đá. Chàng đưa tay phải ra nâng cao tảng đá, tay trái nắm lấy gờ, các thợ thủ công bên dưới đều kinh hoàng, chăm chú đứng xem.
Lúc này, quan tư tế Mông Cương và Ma Thái trông thấy cổ tay phải của Ma Lạc lấp lánh ánh hào quang, vốn là tiên đan hóa thành. Đây là loại tiên đan có năng lượng rất lớn, là pháp bảo độc nhất của Đại Lực thần trên thượng giới, đã qua chín tháng luyện thành, Đại Lực thần lại truyền thần lực vào đó, sau đó nữ thần Kháp La Phi tặng cho Ma Đàm (cha của Ma Lạc). Khi Ma Lạc đặt tảng đá lên, ánh hào quang trên cổ tay khiến Ma Lạc có thần lực hơn người, thần lực lại có thể bảo hộ tảng đá, khiến tảng đá càng thêm vững chãi. Không chỉ Mông Cương và Ma Thái nhìn thấy hào quang, còn có một số người khác cũng trông thấy ánh hào quang trên mình quốc vương. Ma Lạc đã đặt tổng cộng chín tảng đá lớn lên đỉnh tháp.
Trong khi đó, Mông Cương nhìn thấy những con mắt dày đặc trên không trung đang quan sát việc xây tháp Phật, ông thấy khi Ma Lạc nâng một tảng đá, xung quanh tảng đá có rất nhiều thiên sứ với đôi cánh dài, phát ra ánh hào quang chói lọi. Ma Thái cảm thấy trong tâm có một đóa hoa sen đang xoay chuyển, phát ánh hào quang êm dịu, Ma Thái thấy toàn thân của anh trai phát ánh hào quang màu tím, trong đó có những tia chớp lấp lóe. Trong đầu Ma Thái hiện lên hai chữ “Tịch Lịch”, nàng nghĩ: “Tịch Lịch, đằng sau còn phải có từ nữa chứ, là gì vậy nhỉ? Có một từ có vẻ rất quen thuộc mà ta lại không nghĩ ra”, Ma Thái đột nhiên hơi chút hoang mang. Bỗng một vị Thần tiên trên trời vui vẻ nói: “Ngũ Thái Liên Hoa quên mất tên của Tịch Lịch Kim Cương rồi sao?”
Ngày hôm đó, vương hậu Văn Mỹ một lòng lễ Phật, cầu xin Thần Phật ban cho quốc vương thần lực, trong tâm vui sướng vô hạn khi biết tháp Phật sắp xây xong. Lễ Phật xong, nàng đi ra nơi tháp Phật, chứng kiến Ma Lạc đặt xong tảng đá cuối cùng lên đỉnh tháp. Đỉnh tháp xây xong Ma Lạc mới xuống, Văn Mỹ trông thấy xung quanh Ma Lạc có quần thần đi theo, trong mắt Văn Mỹ lúc đó, Ma Lạc trông như một vị thần. Văn Mỹ dùng lễ nghi tôn quý quỳ bái trước Ma Lạc, thần dân đều quỳ bái theo, trong tâm tràn đầy sự kính ngưỡng vô hạn đối với quốc vương. Ma Lạc và Ma Thái nhìn nhau cũng vội quỳ xuống bái lạy, cảm tạ Thần linh trên trời dưới đất đã phù hộ cho tháp Phật xây thành.
Tháp Phật được xây trong chín tháng, ba ngày sau khi xây xong tháp, Ma Lạc cử hành nghi thức long trọng đặt bức tượng Phật và Thần mới vào trong tháp. Quan tư tế Mông Cương chủ trì nghi lễ “thỉnh Phật” trang nghiêm. Thời đó, người ta cho rằng Phật ngự tại thiên giới và Ngài có thể diễn hóa thành vô số thân thể. Khi con người thành kính, kính ngưỡng thờ cúng Phật, thì Đức Phật trên thiên thượng sẽ cảm ứng được, Ngài sẽ phái huyễn thân nhập lên tượng Phật, khiến tượng Phật có sự từ bi và pháp lực giống như chủ tôn, chỉ có người đức cao mới có thể “thỉnh Phật”.
Mông Cương nói: “Đức Phật từ bi vĩ đại, xin Ngài hãy lắng nghe tấm lòng của thế nhân: chúng con với tấm lòng thành kính thỉnh cầu Ngài đến ngụ tại thế gian. Tâm hồn con người dễ dàng bị mê mờ, nhưng sự từ bi của Phật thì vạn cổ bất biến, cầu mong đức Phật nghe được lời thỉnh cầu của chúng con, cầu mong Đức Phật đến thế gian. Chúng sinh tại thế gian lắng nghe lời Phật dạy, đắm mình trong hào quang của Phật mà không rơi vào khổ ải, để chờ đợi được cứu độ”. Mông Cương nói xong, đặt một cuốn kinh vào trong tượng Phật, dùng giấy dán lại, sau đó tụng đọc kinh Phật.
Lúc này trên không trung xuất hiện mây ngũ sắc, phượng hoàng bay đến, trăm chim tụ tập, những thợ thủ công nhìn thấy cảnh tượng này đều vô cùng xúc động.
Bức tượng Cự Hỷ Lạc Phật được đưa vào thờ trong tháp Phật là tượng Phật ngồi đả tọa, hai bên là tượng Thần Đại Địa Mô Mẫu và Chiến Thần Lệ Thiên. Cự Hỷ Lạc Phật là một vị Phật vĩ đại trên thế giới Thiên quốc, Ngài sẽ mang đến cho đất nước niềm hạnh phúc và may mắn. Tượng Thần Mô Mẫu đoan trang có nhiệm vụ giáo hóa, dạy dỗ đức hạnh cho dân chúng. Tượng Chiến Thần Lệ Thiên uy nghi phù hộ cho Ma Thiên quốc lập nên những chiến công, mở mang bờ cõi, thu phục các nước láng giềng kết duyên với Ma Thiên quốc.
(Còn tiếp)
Tác giả: Khải Hàng / chanhkien.org /zhengjian.org