Các cuộc đối thoại giữa tôn giáo và khoa học đã tồn tại từ rất xa xưa, tối thiểu là từ thời Plato, Aristotle và Leibniz. Trước thế kỷ 17, mục tiêu của khoa học là sự minh triết, sự hiểu biết về trật tự tự nhiên và sống một cách hài hòa với nó.
Bắt đầu từ “cuộc cách mạng lượng tử” khoảng 70 năm về trước, nhiều nhà khoa học đã tìm ra sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa các kết quả nghiên cứu của họ và tôn giáo thần bí, siêu việt.
Heisenberg, Bohm, Schrodinger, Eddington, Einstein – những nhà khoa học nổi tiếng – tất cả đều có quan điểm rằng thế giới là huyền bí, thuộc về tinh thần. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sự tương đồng giữa quan điểm khoa học của họ và những điều được nói đến trong tôn giáo và tín ngưỡng.
—***—
Tiếp theo Phần 1
Phần 2: Vật chất và ý thức là một thể thống nhất
Cái khung hạn chế của khoa học thực chứng
Năm 2016, các nhà khoa học đã tạo được một loại vật liệu mới – tinh thể thời gian. Loại tinh thể kỳ dị này có cấu trúc nguyên tử lặp lại theo thời gian, nghĩa là chúng có thể chuyển động vĩnh cửu mà không cần tiêu tốn năng lượng. Đặc biệt, không chỉ có một, mà có đến hai nhóm nhà khoa học độc lập đến từ Đại học Maryland và Đại học Harvard đã tìm ra được loại vật chất đặc biệt này.
Phát hiện mới này quả thật gây chấn động vì vật lý cổ điển cho rằng luôn cần có lực tác động để vật thể chuyển động, nghĩa là cần luôn luôn tiêu tốn năng lượng để cho vật chất dao động hoặc chuyển động.
Trong những năm vừa qua, các nhà khoa học cũng liên tục có những phát hiện mới về các trạng thái khác nhau ngoài 3 trạng thái rắn, lỏng và khí cũng như các tính chất mới của vật chất.
Những điều này minh chứng rằng chúng ta càng tìm hiểu về thế giới xung quanh, thì chúng ta lại càng kinh ngạc về hiểu biết ít ỏi của mình.
“Bạn có nhớ dòng electron và ‘các sóng vô hình’ đã bị cười nhạo như thế nào? Kiến thức về con người vẫn còn rất sơ khởi” – Albert Einstein
Tiến sĩ David Bohm (1917–1992) là nhà khoa học người Do Thái được coi là một trong những nhà vật lý lý thuyết quan trọng nhất của thế kỷ 20. Ông cho rằng bắt đầu từ khi còn nhỏ, chúng ta đã học để nhìn thế giới qua một cái khung nhất định của những quan niệm, vì vậy chúng ta thường phản ứng ngay lập tức với mỗi trải nghiệm mới, thậm chí trước khi có thời gian để suy nghĩ: “Theo cách này, chúng ta tin rằng một số cách cảm nhận và nhận thức thế giới là cố định, mặc dù thực ra là chúng đã được chúng ta khám khá và xây dựng ngay từ khi còn nhỏ và trở thành các thói quen.” [4]
Trong cuốn “Lý thuyết tương đối đặc biệt”, TS. Bohm viết: “Một khó khăn chính trong việc phát triển các khái niệm mới… trong toàn bộ khoa học – là khuynh hướng bám víu vào các khái niệm cũ vượt quá phạm vi hiệu lực của chúng; xu hướng này rõ ràng được tăng cường bởi thói quen của chúng ta – xem các thực thể và khung nhận thức đã biết như thể chúng có đặc tính vĩnh viễn tuyệt đối.” [1]
Bohm nhấn mạnh rằng chân lý phải được “hiểu theo một cách linh động về bản chất, và rằng kiến thức của chúng ta về chân lý có thể trải qua những phát triển mới về nền tảng ở thời điểm bất kỳ, những phát triển này có thể mâu thuẫn với cái khung nhận thức cũ theo cách bất ngờ và chứa đựng các đặc điểm mới bất ngờ. Cũng như trong trường hợp của thuyết tương đối và thuyết lượng tử… những ý tưởng cũ [lý thuyết của Newton] trở nên hoàn toàn sai lầm khi vượt ra ngoài các phạm vi hiệu lực của chúng.” [1]
Quan điểm của Einstein và Bohm tương đồng với quan điểm của những người thực hành tín ngưỡng và tôn giáo. Phật gia cho rằng khoa học thực chứng hiện nay (khoa học khẳng định tri thức xác thực bắt nguồn từ sự kiểm nghiệm thực chứng) không hoàn thiện và nó đóng một cái khung cứng nhắc vào tư duy của con người. Khoa học thực chứng không thể giải thích được sự tồn tại của các không gian khác, không thể nhìn được các vật chất nhỏ nhất, bản chất của vật chất cũng như không nhìn được biên giới của vũ trụ, đồng thời cũng không thể giải thích các vấn đề được cho là “ngẫu nhiên” hoặc “tự nhiên”.
Vạn vật đều có tri giác – vật chất và ý thức là đồng nhất
“Người nào tự cho mình là quan tòa của Sự Thật và Kiến Thức đều bị nhấn chìm bởi tiếng cười của các thần linh.” – Albert Einstein
Trong quá trình nghiên cứu, Tiến sĩ Bohm xác định rằng: ý thức là một dạng thức tinh vi hơn của vật chất, và “sự phân chia vũ trụ thành hữu cơ và vô cơ là vô nghĩa.” [4]
“Ngay cả một viên đá cũng vẫn có sự sống theo cách nào đó”, TS. Bohm nói, “vì sự sống và trí tuệ hiện diện không chỉ trong tất cả các vật chất, mà trong cả năng lượng, khoảng không, thời gian và khung của toàn vũ trụ.” Và thêm nữa, “Mọi thứ đều có sự sống. Điều gọi là cái chết mới trừu tượng.” [2]
Ken Wilber, người được mệnh danh là “Einstein về ý thức”, đã viết trong cuốn sách “Những câu hỏi lượng tử”: “Thế giới vật chất không phải cơ bản nhất, mà là ít cơ bản nhất: nó có ít Sự sống hơn cuộc sống, mà cuộc sống lại có ít Sự sống hơn tâm trí, tâm trí lại có ít Sự sống hơn tinh thần. Vật lý chỉ đơn giản là nghiên cứu về lĩnh vực có ít Sự sống nhất.” [3]
Tiến sĩ William Tiller, một trong những nhà khoa học hàng đầu thế giới về cấu trúc vật chất của Đại học Stanford, đã có bước tiến lớn đến lý thuyết thống nhất về vật chất, năng lượng và ý thức – có thể đáp ứng mong mỏi của Einsstein trong việc lượng hóa một mô hình vũ trụ theo kiểu trường-năng-lượng. Thông qua các mô hình toán học với mức trừu tượng ngày càng tăng, TS. Tiller phát hiện rằng tại các chiều xem xét cao hơn, có vẻ như các phương trình khác hẳn nhau mô tả các hiện tượng thông thường và dị thường đều hợp nhất lại. Và ý thức phát ra dưới dạng thông tin với tốc độ vô hạn đồng thời có thể xuất hiện trong vô hạn các địa điểm trong không gian mở rộng vô hạn.
TS. Tiller nói rằng “người ta rốt cuộc sẽ xem ý thức là một đặc tính của vũ trụ, thứ có khả năng tạo ra phóng xạ mà cuối cùng sẽ sinh ra vật chất. Về khía cạnh này, người ta rốt cuộc sẽ khám phá rằng đặc tính của vật chất phụ thuộc vào ý thức nội tại của nó.” [4]
Những phát hiện của Bohm, Wilber và Tiller quả thật rất khó chấp nhận bởi các nhà khoa học khác, tuy nhiên điều này phù hợp với điều mà những người thực hành tín ngưỡng và tôn giáo tin vào: vật chất và ý thức không phải là hai thứ độc lập và đối lập với nhau, chúng thực chất chỉ là một. Nghĩa là bất kỳ vật chất nào cũng đều có ý thức, và bản thân ý thức cũng là vật chất.
Phật gia giảng rằng “vạn vật đều có linh”, điều đó có nghĩa rằng không chỉ con người mà kể bất kể vật nào bao gồm cả động vật, thực vật, các vật chất hữu cơ và vô cơ cũng đều có ý thức của mình.
Nhiều người nghe nói động vật có tri giác thì còn có thể chấp nhận, nhưng nếu nói thực vật và cả các chất hữu cơ và vô cơ cũng đều có tri giác thì quả thực là đáng nghi ngờ, nhưng những thí nghiệm và báo cáo khoa học trong hàng chục năm qua đều đã và đang chứng minh phần nào được điều này:
Thực vật cũng có tri giác
Cleve Backster, một cựu nhân viên CIA, vào năm 1966, bằng cách sử dụng một máy dò nói dối, đã tình cờ khám phá ra rằng thực vật cũng có những hoạt động cảm xúc ở cấp cao và tương đồng với cảm tình ở con người, chúng vui vẻ khi được chăm sóc, sợ hãi khi gặp người làm điều xấu và cảm nhận được mối đe dọa từ suy nghĩ của con người.
Các nghiên cứu khác cũng phát hiện rằng cây cối có thể phân biệt được mối quan hệ họ hàng và biết chăm sóc cho nhau. Ngoài ra chúng cũng biết nhường nhịn nhau như những bạn bè.
Cả chất hữu cơ lẫn vô cơ cũng đều có ý thức
Từ năm 1994, Tiến sĩ người Nhật Masaru Emoto, cố chủ tịch Hội Hado Quốc tế (hội nghiên cứu về nước và sóng nước), đã nghiên cứu về tinh thể của nước ở những môi trường khác nhau. Ông phát hiện ra rằng khi chúng ta nói với nước những lời thân yêu như “cám ơn” thì nước ở trạng thái các tinh thể tuyệt đẹp, ở cấu trúc như viên kim cương lấp lánh rất bền vững, còn khi để nước nghe những lời như “đồ ngốc” hay chửi bới thì tinh thể nước sẽ bị biến dạng, ở trạng thái dễ vỡ, méo mó, không xác định.
Trong thí nghiệm khác của Emoto, tinh thể nước cũng trở nên đẹp hơn khi những người ở cách xa hàng trăm cây số có suy nghĩ mong muốn điều tốt đẹp cho chúng.
Tương tự như vậy, trong một thí nghiệm khác, Tiến sĩ Masaru Emoto đã cho cơm vào trong 2 lọ thủy tinh giống hệt nhau và yêu cầu học sinh của mình nói chuyện với chúng trong suốt một tháng. Một lọ được nghe từ ‘cảm ơn’, trong khi lọ còn lại được nghe từ ‘đồ ngu’. Kết quả là cơm trong lọ được nói ‘cảm ơn’ lên men và có mùi thơm của lúa mạch nha chín. Còn lọ cơm bị nghe từ ‘đồ ngu’ chuyển sang màu đen và bị thiu thối. Họ nói rằng mùi thối của nó rất ghê tởm không thể tả được.
Nghiên cứu của Masaru Emoto về tinh thể của nước cũng đã được kiểm chứng bởi Viện nghiên cứu khoa học Noetic, Mỹ với kết quả tương tự.
Các nghiên cứu của Masaru Emoto cũng đã được viết trong 2 cuốn sách “Thông điệp của nước” và “Bí mật của nước”. Hai cuốn sách này cũng đã được dịch và phát hành ở Việt Nam.
Thí nghiệm về 2 lọ cơm và nước của Tiến sĩ Masaru Emoto đã được rất nhiều người trên thế giới lặp lại, và họ đều có phát hiện giống như ông. Kết quả thí nghiệm của họ đã được phổ biến trên youtube.
Ý thức cũng là vật chất
Thí nghiệm của Cleve Backster và Masaru Emoto cũng như nhiều video về nước và các lọ cơm trên youtube đã minh chứng một điều: vật chất thực sự có ý thức, chúng hiểu được hành động và suy nghĩ của con người đối với chúng, chúng cũng bày tỏ cảm xúc của mình tùy theo hoàn cảnh.
Ngược lại, ta cũng thấy rằng ý thức cũng thực sự tác động lên vật chất. Chẳng phải suy nghĩ của Backster, của Emoto cùng những người khác đã tác động lên các thực vật, các tinh thể nước và lọ cơm đó sao?
Không chỉ có vậy, có nhiều nghiên cứu và thí nghiệm đã chứng minh rằng ý thức có thể tác động đến vật chất như tác động đến các hạt hạ nguyên tử dẫn đến các sai lệch trong thí nghiệm khe đôi lượng tử và hiệu ứng zeno lượng tử, khả năng di chuyển đồ vật bằng suy nghĩ, hiệu ứng giả dược…
>> 5 thí nghiệm khoa học chứng minh suy nghĩ của bạn tác động lên vật chất
Vậy, vì sao ý thức có thể tác động lên vật chất? Lý do là bởi vì ý thức cũng là vật chất – và vật chất thì có thể tác động qua lại lẫn nhau.
Lý giải về điều này, Phật gia giảng rằng bất kỳ tư duy, bất kỳ suy nghĩ nào của con người, dù là nhỏ nhất và ngay trong một thời gian cực ngắn cũng tạo ra vật chất. Suy nghĩ mà xấu thì vật chất tạo ra sẽ xấu, suy nghĩ mà tốt thì vật chất tạo ra sẽ tốt, và chúng thực sự tác động lên mọi thứ xung quanh. Không chỉ có vậy, các vật chất được tạo ra bởi suy nghĩ đều có hình thức tồn tại ở không gian khác, và những người có con mắt thứ ba ở cảnh giới tinh thần cao có thể nhìn thấy chúng.
Điều này lý giải vì sao một số người có khả năng đặc biệt hoặc một số người tu hành có đạo đức cao thượng có thể đọc được suy nghĩ của người khác. Lý do là vì họ đã nhìn thấy vật chất được tạo bởi suy nghĩ người khác ở một không gian khác thông qua con mắt thứ ba. Điều này vẫn thường được đề cập đến trong các tôn giáo và tín ngưỡng.
Nếu quả thực vật chất và ý thức là một thể đồng nhất, là nhất tính thì cuộc tranh luận giữa Triết học Duy vật và Triết học Duy tâm tồn tại từ bao thế kỷ qua sẽ thực sự đi đến hồi kết. Cuộc đấu tranh cho rằng “vật chất sinh ra ý thức” hay “ý thức sinh ra vật chất” sẽ không còn ý nghĩa nữa. Có lẽ khi đó tôn giáo, tín ngưỡng và khoa học cũng không còn bị cho là đối lập với nhau nữa.
Và nếu nhân loại sẵn sàng từ bỏ “cái khung nhận thức cũ” đã trở nên không còn phù hợp trong phạm vi của nó nữa để thừa nhận rằng vật chất và ý thức là một thể thống nhất, thì khi đó, nhân loại sẽ bước sang một kỷ nguyên mới với những bước phát triển khó có thể hình dung được bằng những tri thức hiện nay.
Một số video ghi lại kết quả thí nghiệm với các lọ cơm và nước của Tiến sĩ Masaro Emoto được người dân trên thế giới kiểm chứng và ghi lại:
Thiện Tâm tổng hợp