Năm 1917, Đức Mẹ đã hiển linh 6 lần, mỗi lần cách nhau 1 tháng, với ba đứa trẻ chăn cừu tại một thôn làng nhỏ tại Bồ Đào Nha. Trong 6 lần này Đức Mẹ đã trao truyền 3 bí mật cho 3 đứa trẻ.
Trong lần hiển linh thứ 6, Đức Mẹ được cho là đã triển hiện phép lạ. Mặt trời khi đó đã xoay tròn trên bầu trời, phát ra chùm ánh sáng nhiều màu, thậm chí lao về phía trái đất theo hình zig-zag. Giới khoa học nhìn nhận đó là một hiện tượng quang học hiếm gặp, nhưng lại được kích phát bởi những tác nhân thần kỳ, vi diệu, khiến việc xuất hiện của nó được coi như một “phép mầu”, đặc biệt khi “phép mầu” này đã được báo trước, và được chứng kiến bởi hơn 70.000 người, bao gồm các nhà báo và phóng viên.
Sự việc này đã được Giáo hội Công giáo Roma ở Vatican tuyên bố là có “tính chất siêu thường”, và vào tháng 4/2017, giáo hoàng đương nhiệm Francis đã chủ sự thánh lễ trọng thể phong thánh cho 2 trong 3 đứa trẻ chăn cừu. Hai đứa trẻ này đã mất sớm, chỉ còn lại cô chị cả Lucia dos Santos (1907-2005), người lưu giữ 3 bí mật của Đức Mẹ. Lucia đã tiết lộ các bí mật của Đức mẹ trong các cuốn hồi ký và thư tay được bà viết sau này. Lucia sau này đã trở thành một nữ tu, nên gọi là sơ Lucia.
Ba bí mật dự đoán tương lai của Đức mẹ Maria
Bí mật đầu tiên là về cảnh tượng địa ngục, được Đức mẹ hé mở cho 3 đứa trẻ vào ngày 13/7/1917. Còn bí mật thứ hai là lời tiên đoán về Thế chiến I và Thế Chiến II.
Bí mật thứ haicó trích đoạn như sau:
“Chiến tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong triều Giáo hoàng của đức Piô XI. Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu sáng bởi một ánh sáng chưa từng biết, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha”.
“Chiến tranh sẽ kết thúc”, đây chính là ám chỉ sự kết thúc của Thế chiến I. Tại thời điểm Đức mẹ trao truyền 3 bí mật vào năm 1917, Châu Âu đang trong lòng Thế chiến I (bắt đầu từ năm 1914). Một năm sau, vào 1918, Thế chiến I chấm dứt, Hòa ước Versailles được ký kết giữa các phe tham trận, ứng nghiệm cho lời tiên đoán của Đức Mẹ.
Vậy còn đoạn “Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu sáng bởi một ánh sáng chưa từng biết, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha”. Đây chính là để ám chỉ hiện tượng cực quang hiếm gặp vào năm 1917, điềm báo được Đức mẹ nói tới trước khi Thế chiến II xảy ra.
Ngày 25 tháng 1 năm 1938, một cực quang lớn đã được nhìn thấy trên khắp châu Âu. Đây không phải là một sự kiện bình thường. Hiện tượng này trải dài từ Châu Âu, châu Phi, cho đến tận Châu Mỹ. Nó đã khiến rất nhiều người lo sợ. Thậm chí có người đã nhầm tưởng nó là “lửa trời”, như tiêu đề số báo ra cùng ngày trên tờ New York Times; “Cực quang làm Châu Âu khiếp sợ; Người dân bỏ chạy trong sợ hãi, gọi lính cứu hỏa (Aurora Borealis Startles Europe; People Flee in Fear, Call Firemen)”.
Ảnh chụp trang bài bài báo với tiêu đề gây sốc trên tờ New York Times:
Ngày 4 tháng 2 năm 1938, Hitler lên nắm quân đội Đức, và một tháng sau đó, Hitler chỉ huy xâm lược Áo, sự kiện khơi mào cho Thế chiến II. Cuộc chiến chính thức bắt đầu vào năm sau, tức năm 1939.
Năm 1939 lúc đó đang là năm tại vị cuối cùng của Đức Giáo hoàng Piô XI, ứng nghiệm với lời tiên đoán “nếu dân chúng không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong triều Giáo hoàng của đức Piô XI”.
Điều thú vị là, vào thời điểm Đức Mẹ trao truyền bí mật vào năm 1917, Ambrogio Ratti khi đó còn chưa nhậm chức Giáo Hoàng, và cũng chưa có tước hiệu “Đức Giáo hoàng Piô XI” (ông nhậm chức Giáo hoàng từ năm 1922, và đặt tước hiệu sau đó). Dường như, bí mật thứ 2 còn là lời tiên đoán về người sẽ nắm giữ vị trí Đức giáo hoàng tương lai.
Bí mật thứ 3 là một bí mật gây tranh cãi mãi cho đến tận ngày nay
Tính chất “gây tranh cãi” của nó nằm ở chỗ, tuy rằng nó đã được công bố vào năm 2000, nhưng tính chất chân thực của nó đang bị đặt một dấu hỏi lớn. Có nhiều tin đồn cho rằng nội dung bí mật thứ 3 được tiết lộ không đúng, hoặc chí ít không được tiết lộ đầy đủ, vì tính chất nghiêm trọng của lời tiên đoán liên quan đến vận mệnh của toàn nhân loại tương lai. Nhưng vẫn có những manh mối để lần ra nội dung thật sự của bí mật này.
Trái với hai bí mật trước, vốn được Lucia ghi rõ trong cuốn hồi ký của sơ vào tháng 8/1941, sơ đã quyết định không tiết lộ bí mật thứ ba trong hồi ký này. Năm 1943, Lucia ngã bệnh trầm trọng, khi bị mắc cúm và viêm màng phổi. Giám mục Silva, ghé thăm sơ vào tháng 9 năm 1943, gợi ý sơ nên viết xuống bí mật thứ ba để đảm bảo nó được lưu lại và không bị mất đi trong trường hợp sơ qua đời. Tuy nhiên, sơ Lúcia lúc đó tỏ ra khá do dự. Khi cô được trao truyền bí mật, sơ đã nghe thấy Đức mẹ căn dặn không được tiết lộ nó, nhưng bởi theo quy ước của dòng tu Carmelite, rằng mệnh lệnh từ bề trên được coi như là mệnh lệnh trực tiếp đến từ Chúa, nên sơ đã ở trong tình thế rất khó xử khi không biết phải tuân theo mệnh lệnh nào. Rốt cuộc, vào giữa tháng 10 cùng năm, Đức Giám Mục Silva đã gửi cho sơ một lá thư yêu cầu sơ tiết lộ điều bí mật, và sơ Lúcia đã vâng lệnh.
Ngày 3/1/1944, bí mật thứ ba đã được Sơ Lucia viết xuống “dưới yêu cầu của Đức giám mục xứ Leiria và Đức mẹ Thần thánh nhất”. Tháng 6/1944, phong bì niêm phong chứa bí mật thứ ba đã được chuyển đến Đức giám mục Silva, và ở đó cho đến khi được chuyển đến Tòa thánh Vitican ở Roma vào năm 1957.
Năm 1960, trong một thông cáo báo chí, tòa thánh Vatican tuyên bố “rất có thể Bí mật này sẽ mãi mãi bị niêm phong”. Thông báo này đã làm dấy lên rất nhiều lời đồn đoán về nội dung của bí mật. Theo tờ New York Times, có nhiều phỏng đoán đã được đưa ra, từ “[lời tiên tri về] một vụ hủy diệt hạt nhân mang tính toàn cầu cho đến những rạn nứt sâu sắc trong Giáo hội Công giáo dẫn đến chế độ giáo hoàng đối lập”.
Sự tò mò và nỗi khao khát được biết nội dung của bí mật thứ ba này trong quần chúng lớn đến nỗi thậm chí, có người đã viện đến các biện pháp cực đoan, đặt tính mạng của người khác vào chỗ nguy hiểm, để hòng biết được bí mật này. Ví dụ vào ngày 2 tháng 5 năm 1981, Laurence James Downey đã cướp một chiếc máy bay để ép buộc Đức Giáo hoàng đương nhiệm Gioan Phaolô II chấp thuận công bố Bí mật thứ ba.
Cuối cùng, bí mật thứ ba đã được Tòa thánh Vatican công bố vào ngày 26/6/2000, 83 năm sau lần hiển linh thứ nhất của Đức mẹ tại Fatima, Bồ Đào Nha.
Nhìn chung, nội dung bí mật thứ ba xoay quanh vụ ám sát hụt Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 13/5/1981. Ngày 13/5/1981, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát bằng súng khi tiến vào Quảng trường thánh Peter tại Vatican. Ông đã bị thương và mất rất nhiều máu, nhưng đã may mắn sống sót sau quá trình cấp cứu kịp thời.
Đây là một vụ việc chấn động trong giới Công giáo lúc bấy giờ. Dễ hiểu đây là một sự việc rất lớn, nhưng tại thời điểm công bố vào năm 2000, 19 năm sau khi sự việc xảy ra, bí mật này dường như không có gì đáng kinh ngạc hay chấn động. Tuy nhiên, sau khi bí mật được công bố, rất nhiều nghi vấn được đặt ra, bởi công chúng cho rằng bí mật thứ ba như được Giáo hội công bố không phải là bí mật thật sự, chí ít không phải là toàn bộ bí mật. Lấy ví dụ, Bí mật thứ 3 được viết tay dưới dạng một bức thư, trên chỉ một trang giấy, tuy nhiên trên thực tế, nó lại được viết trên 4 trang giấy rời. Điều này đã được xác thực bởi sơ Lucia trong các buổi phỏng vấn và trao đổi cá nhân.
Đặc biệt, bằng chứng thuyết phục nhất nằm chính ở những lời chia sẻ của hai vị Giáo hoàng, sau khi tự mình đọc qua nội dung của bí mật thứ 3. Vụ ám sát Giáo hoàng Gioan Phaolô II – người đứng đầu Giáo hội Công giáo vào năm 1981 là một sự kiện chấn động, do đó dường như xứng đáng để được bao hàm trong nội dung của bí mật thứ 3.
Tuy nhiên, hãy xem chia sẻ của vị Giáo hoàng này trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Đức Stimme des Glaubens từ ngay trước đó 1 năm, tức năm 1980, về nội dung của bí mật thứ 3 sau khi ông đã đọc qua chúng – một bình luận dường như không cho thấy sự e ngại nào của ông về khả năng xảy ra một vụ ám sát đối với bản thân mình:
“Cần phải cho tất cả các tín đồ Cơ Đốc biết được điều này: nếu có một thông điệp cho biết rằng các đại dương sẽ nuốt trọn toàn bộ các phần đất liền trên trái đất; rằng, từ khoảnh khắc này cho tới khoảnh khắc khác, hàng triệu người sẽ chết… thì sẽ không có bất cứ động lực nào để công bố thông điệp bí mật trên. Nhiều người muốn biết chỉ để thỏa mãn tính tò mò của mình, hoặc bởi tâm lý muốn tiếp xúc với những tình tiết giật gân, nhưng họ quên mất rằng ‘việc biết’ ngụ ý trong đó một trách nhiệm đi kèm. Thật nguy hiểm khi chỉ muốn thỏa mãn tính tò mò của một ai đó, đặc biệt khi người đó dễ dàng bị thuyết phục rằng chúng ta không thể làm gì để ngăn chặn một thảm hoạ đã được tiên đoán trước”.
Không chỉ vậy, trong một cuộc phỏng vấn đăng trên Tạp chí Jesus ấn bản ngày 11/11/1984, Đức Hồng y Ratzinger (sau này là Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI) thừa nhận rằng ông đã được đọc Bí mật thứ ba, và cho biết bí mật thứ ba có liên quan đến “tầm quan trọng của ngày kết thúc”, và “những nguy hiểm đe dọa niềm tin và cuộc sống của Kitô giáo và cuộc sống của toàn nhân loại”.
Đức Hồng y Ratzinger cũng bình luận thêm rằng, “Lý do bí mật này không được công bố – ít nhất là trong khoảng thời gian hiện tại – là để ngăn chặn những lời tiên tri trong tôn giáo bị nhầm lẫn với một cuộc tìm kiếm những trò giật gân”.
Dựa trên bình luận trên của hai Đức Giáo hoàng, dường như bí mật thứ ba có liên quan đến một loạt các thảm họa khủng khiếp nào đó sẽ xảy ra trên địa cầu.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Inside the Vatican vào năm 1998, Howard Dee, cựu đại sứ Phillppine ở Vatican cho biết Đức Hồng y Ratzinger đã đích thân xác nhận với ông rằng thông điệp của Đức mẹ ở Fátima về cơ bản là giống với thông điệp của Đức mẹ ở Akita. Đức mẹ Akita là danh hiệu được gắn với một lần hiển linh khác của Đức mẹ tại một tu viện ở Akita, Nhật Bản. Trong lần hiển linh này tượng Đức Mẹ Maria trong tu viện đã chảy máu, khóc, chữa khỏi bệnh nan y và báo mộng cho Sơ Agnes Katsuko Sasagawa trong tu viện.
Lời tiên tri của Akita, có trích đoạn:
““Đứa con của ta, hãy nhớ kỹ những lời ta nói. Con cần phải truyền lại thông điệp này cho bề trên của mình. Ta bảo con này, nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy [thời ông Noah], với mức độ chưa từng có trong lịch sử.
Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội khiến các hồng y chống lại các hồng y, các giám mục chống lại các giám mục … Ta buồn khi nghĩ tới viễn cảnh mất đi rất nhiều sinh linh. Nếu tội lỗi tiếp tục gia tăng về số lượng và mức độ, họ sẽ không được sự tha thứ nữa”.
Theo cuốn “Toàn bộ sự thật về Fatima (Tập 3): Bí mật thứ 3 (The Whole Truth About Fatima (Volume III): The Third Secret)”, tác giả Frere Michel cho biết, khi sơ Lucia được một số người gạn hỏi về nội dung của bí mật này, sơ đã bật mí một cách ngắn gọn rằng, nó nằm trong sách Khải Huyền thuộc Kinh Thánh.
Nói đến Khải Huyền, đây là cuốn sách cuối cùng trong bộ kinh Tân Ước thuộc Kinh Thánh, là cuốn sách tiên tri về nhân loại tương lai. Nội dung của nó đề cập đến thời điểm kết thúc, khi những biến động thế giới đi kèm với sự xuống dốc của đạo đức con người và sự hủy hoại của môi trường tự nhiên. Cùng lúc, Khải huyền cũng khải thị về Đấng Messiah, tức Cứu Thế Chủ, Đấng Cứu Thế, hay Chúa Cứu Thế sẽ xuất hiện để truyền ra Luật của Vũ Trụ (Pháp), quy chính lại hết thảy những gì đã bại hoại. Ông sẽ chuyển sinh thành người ở vùng đất phương Đông, và sẽ đích thân truyền Pháp độ nhân.
Nói đến thời điểm kết thúc, có sự trùng hợp rất lớn giữa lời giảng của các tôn giáo chính thống trong lịch sử. Trong Cơ Đốc giáo phương Tây có Đấng Messiah, thì trong Phật giáo phương Đông lại có truyền thuyết về Đức Phật Di Lặc, được Phật Thích Ca Mâu Ni truyền giảng là một vị Phật vị lai sẽ hạ thế vào thời mạt kiếp, hay mạt Pháp, để truyền chính Pháp, tái tạo càn khôn, khôi phục lại sự thuần chính của vũ trụ. Dựa trên sự đối chiếu so sánh giữa các đặc điểm được nhắc tới về Chúa Cứu Thế trong Cơ Đốc giáo và Phật Di Lặc của Phật gia, có một số học giả cho rằng hai vị này thực chất là cùng một người.
Chiểu theo Phật gia, sự xuất hiện của Phật Di Lặc, cũng được gọi là Chuyển Luân Thánh Vương sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loại thiên hoa nhỏ li ti, trắng muốt, thân mỏng như sợi, có thể mọc trên bất kỳ chất liệu nào mà không cần đất và nước như đồng, sắt thép, thủy tinh, keo dán, trái cây, thực vật, … một điều mà các loại hoa thông thường khác không thể làm được. Đặc biệt, những bông hoa này có thể được lưu giữ đến hàng năm không phai tàn…
Lời tiên tri trong kinh Phật đã ứng nghiệm, những bông hoa Ưu Đàm Bà La hiện giờ đã khai nở khắp nơi, bao gồm ở cả Việt Nam. Vậy phải chăng Đức Phật Di Lặc, hay Đức Chúa Cứu Thế được nhắc đến trong Khải Huyền của Cơ Đốc giáo, đã có mặt tại nhân gian và đang cứu độ chúng sinh?
Quý Khải / Theo DKN