Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Nguyên văn chữ Hán và chú âm
至(ㄓˋ) 若(ㄖㄨㄛˋ) 髮(ㄈㄚˋ) 膚(ㄈㄨ) 不(ㄅㄨˋ) 可(ㄎㄜˇ) 毁(ㄏㄨㄟˇ) 傷(ㄕㄤ),
曾(ㄗㄥ) 子(ㄗˇ) 常(ㄔㄤˊ) 以(ㄧˇ) 守(ㄕㄡˇ) 身(ㄕㄣ) 為(ㄨㄟˊ) 大(ㄉㄚˋ);
待(ㄉㄞˋ) 人(ㄖㄣˊ) 须(ㄒㄩ) 當(ㄉㄤ) 量(ㄌㄧㄤˋ) 大(ㄉㄚˋ),
師(ㄕ) 德(ㄉㄜˊ) 貴(ㄍㄨㄟˋ) 於(ㄩˊ) 唾(ㄊㄨㄛˋ) 面(ㄇㄧㄢˋ) 自(ㄗˋ) 乾(ㄍㄢ)。
Bính âm
至(Zhì) 若(ruò) 发(fà) 肤(fū) 不(bù) 可(kě) 毁(huǐ) 伤(shāng),
曾(Zēng) 子(Zǐ) 常(cháng) 以(yǐ) 守(shǒu) 身(shēn) 为(wéi) 大(dà);
待(dài) 人(rén) 须(xū) 当(dāng) 量(liàng) 大(dà),
师(Shī) 德(Dé) 贵(guì) 于(yú) 唾(tuò) 面(miàn) 自(zì) 干(gān)。
Âm Hán Việt
Chí nhược phát phu bất khả huỷ thương,
Tăng Tử thường dĩ thủ thân vi đại;
Đãi nhân tu đương lượng đại,
Sư Đức quý ư thoá diện tự can.
Giải nghĩa từ ngữ
(1) 髮膚 (phát phu): tóc và da.
(2) 曾子 (Tăng Tử): tên Sâm, tên chữ là Tử Dư, học trò của Khổng Tử.
(3) 量大 (lượng đại): độ lượng rộng lớn, khoan dung độ lượng.
(4) 師德 (Sư Đức): Lâu Sư Đức, người Trịnh Châu thời Đường, thời Võ Tắc Thiên từng vào triều làm thừa tướng.
(5) 唾面 (thóa diện): nhổ nước bọt vào mặt.
Bản dịch tham khảo
Thân thể, tóc và da đều là cha mẹ ban cho, không dám tùy ý làm tổn hại, do đó Tăng Tử coi việc giữ gìn thân thể là việc lớn; đối nhân xử thế cần phải khoan dung độ lượng, Lâu Sư Đức triều Đường cho rằng cần phải nhẫn nhịn, cho dù người ta có nhổ nước bọt vào mặt mình thì cũng đừng lau khô mặt, hãy để nước bọt tự khô.
Đọc sách luận bút
Nội dung hai câu đầu của bài học này có lẽ mọi người đều quen thuộc và hiểu rõ: “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu” (Thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ). Vì vậy hôm nay chúng ta chủ yếu sẽ nói về nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa của câu này, tại sao người xưa cho rằng việc bảo vệ cơ thể, tóc và da là quan trọng đến như vậy.
Có người cho rằng, không có cơ thể khỏe mạnh thì lý tưởng và sự nghiệp cũng không thể đạt được, cũng có người cho rằng, cha mẹ thường hay lo lắng con cái có khỏe mạnh không, nếu chăm sóc tốt thân thể của bản thân thì cha mẹ tự nhiên sẽ cảm thấy yên lòng, đương nhiên đây là điều cơ bản nhất của hiếu hạnh, là việc đầu tiên cần phải làm được, nếu không, để thân thể bị thương, hoặc đau ốm, thì sẽ khiến cha mẹ ăn ngủ không yên, thì đương nhiên cũng là không hiếu rồi. Cách hiểu này tất nhiên là đúng, nhưng không phải là bản chất.
Câu này nguyên từ cuốn Hiếu Kinh. Hiếu Kinh do Khổng Tử sáng tác, và được viết dưới hình thức cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và học trò Tăng Tử của ông. Cuộc thảo luận về cơ thể, tóc và da ở bài này xuất hiện trong chương mở đầu trong cuốn Hiếu Kinh, chương này có tên là “Khai Tông Minh Nghĩa”, nói một cách đơn giản dễ hiểu, chính là ngay từ đầu đã nói cho mọi người biết luận điểm của bộ sách này là: thế nào là hiếu, mục đích của việc giảng đạo hiếu là gì? Vì nó xuất hiện ở chương đầu, nên ắt có ý nghĩa sâu sắc, nếu không thể đọc hết toàn bộ sách này, bạn rất dễ đoạn chương thủ nghĩa hoặc hiểu một cách rất nông cạn. Vì vậy, sau khi chúng ta đọc xong chương này, mọi thứ tự nhiên sẽ rõ ràng.
Nguyên văn và đại ý của “Hiếu Kinh Khai Tông Minh Nghĩa”:
Nguyên văn: “Trọng Ni cư, Tăng Tử thị. Tử viết: “Tiên vương hữu chí đức yếu đạo, dĩ thuận thiên hạ, dân dụng hòa mục, thượng hạ vô oán. Nhữ tri chi hồ?” Tăng Tử tị tịch viết: “Sâm bất mẫn, hà túc dĩ tri chi?” Tử viết: “Phù hiếu, đức chi bản dã, giáo chi sở do sinh dã. Phục toạ, ngô ngữ nhữ. Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã. Phù hiếu, thủy ư sự thân, trung ư sự quân, chung ư lập thân. “Đại Nhã” vân: ‘vô niệm nhĩ tổ, duật tu quyết đức’”.
Chương này, dịch sang ngôn ngữ hiện đại, đại khái nói: Một ngày nọ, Khổng Tử ngồi nhàn rỗi trong nhà, đệ tử của ông là Tăng Tử ngồi hầu bên cạnh. Khổng Tử nói: “Bậc đế vương tiên tổ có lòng nhân đức rất cao, thông hiểu các vấn đề then chốt trong đạo trị quốc và đối nhân xử thế, khiến thiên hạ nhân tâm quy thuận, người dân sống hoà thuận với nhau. Trên dưới hài hòa, người người đều không oán hận, không bất mãn. Con có biết tại sao lại như vậy không?” Nghe câu hỏi, Tăng Tử nhanh chóng đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi để thể hiện sự cung kính và trả lời rằng: “Học trò không đủ thông minh để hiểu, đạo lý nằm ở đâu ạ?”
Khổng Tử liền dạy bảo rằng: “Đức cao đạo lý chính của các bậc tiên vương này tức là hiếu. Nó là cội nguồn của tất cả đức hạnh, cũng là căn nguyên của giáo dục. Con ngồi xuống, ta sẽ nói cho con biết kĩ càng tỉ mỉ thế nào là đạo hiếu. Thân thể chân tay, da tóc của con người, đều do cha mẹ ban tặng, không được tùy tiện làm tổn hại, thương tàn, làm được điều này, có thể nói là khởi đầu của đạo hiếu. Để có thể lập thân được ở đời phải tuân theo đạo đức nhân nghĩa, lưu lại tấm gương nhân đức cho thế hệ mai sau, cũng là làm cho cha mẹ vẻ vang vinh hiển, đây là mục đích cuối cùng của đạo hiếu. Cái gọi là đạo hiếu, bắt đầu từ việc phụng dưỡng cha mẹ, sau đó là phụng sự quân vương, và cuối cùng thành tựu được đức hạnh của mình, có đức cao ở thế gian. Trong Kinh Thi – Đại Nhã – Văn Vương có viết rằng: ‘Làm sao có thể không nhớ đến tổ tiên của mình? Phải truyền thừa và tu hành các mỹ đức của tổ tiên để lại’”.
Lấy đức lập thân, vì đức vang danh, đó là đạo hiếu tối cao:
Chúng ta nhận thấy rằng, Khổng Tử giảng về đạo hiếu, bắt đầu giảng từ đạo đức cao của tiên vương, kỳ thực đó chính là đạo hiếu đễ và trung tín mà cả cuộc đời vua Thuấn đã để lại. Từ nhỏ vua Thuấn đã bị mẹ kế, cha và em trai của mình ngược đãi, nhưng ông chưa bao giờ oán hận, cả đời vẫn đối xử tốt với cha mẹ và yêu thương em trai, khi ở bên ngoài, dù là khai hoang hay đi đánh cá, ông đều có thể nhường chỗ tốt cho người già yếu, đức hạnh của ông đã cảm hóa lòng người, giáo hóa thiên hạ, phong tục người dân trở về thuần hậu, trên dưới đều học theo, lòng người tự nhiên quy thuận. Những điều mà Khổng Tử giảng chính là lòng nhân đức lấy đạo hiếu làm gốc của Thuấn. Đó là đạo lý cốt lõi căn bản để lập thân và trị quốc. Đó cũng là cội nguồn căn bản mà tiên vương Thuấn đế đã thành lập giáo dục, con người ắt phải bắt đầu từ hiếu đạo để tu dưỡng nhân đức của bản thân, vì vậy, đạo hiếu rất quan trọng.
Sau đó chúng ta mới bắt đầu giảng từ đầu về cách thực hành đạo hiếu ra sao, đó chính là cảm ơn và trân quý tấm thân do cha mẹ ban cho, trân trọng sinh mệnh này. Tương lai không chỉ dùng thân mình để phụng dưỡng cha mẹ, mà còn giúp vua trị nước, tạo phúc cho bách tính, cuối cùng thành tựu giá trị cuộc đời, đó chính là giành vinh quang cho cha mẹ và tổ tiên, hãy lưu ý, giành vinh quang không phải là để hiển hách địa vị thân phận, biểu dương tên tuổi đời sau, kiến công lập nghiệp, cũng không phải vì sự nổi danh cá nhân hiện tại, để hiển thị bản thân có của cải và địa vị, mà là để thành tựu đạo đức, lấy đức lập thân, lưu lại danh tiếng tốt về nhân đức, để hậu nhân tưởng nhớ và kính trọng vì những đức hạnh cao đẹp của bạn, lấy bạn làm gương, đây mới là thực sự làm rạng rỡ tổ tông. Con cháu đời sau đều sẽ vinh hạnh về điều này, đời đời truyền thừa, thực hiện tác dụng giáo hóa của đạo đức. Cái danh mà Khổng Tử giảng là giá trị do nhân đức mang đến, khiến đời sau vì thế mà tự hào. Vì vậy, Khổng Tử đã dùng lời trong Kinh Thi để kết thúc luận thuật về đạo hiếu của mình, để nói với các đệ tử phải biết luôn ghi nhớ đức hạnh của tổ tiên, noi theo họ, kế thừa và tu hành mỹ đức của họ.
Có thể thấy, bảo vệ thân thể mà cha mẹ ban cho không chỉ để cha mẹ yên lòng, mà còn phải dùng thân thể đó để thực hành đạo hiếu tại gia đình, ra ngoài giảng trung tín, thực hành đạo nghĩa, lưu lại mỹ đức, làm tấm gương cho hậu nhân, đây chính là vinh diệu lớn nhất, cũng là đạo hiếu lớn nhất với cha mẹ và tổ tiên, vì vậy đó chính là kế thừa và phát huy mỹ đức của tổ tiên, đó là đạo hiếu tối thượng. Khổng Tử bắt đầu giảng về đạo đức cao đẹp của tiên vương, kết thúc bằng việc kế thừa và tu hành mỹ đức của tổ tiên trong Kinh Thi, điều ông giảng là thực hành nhân đức, lấy đạo hiếu làm gốc, và bắt đầu bằng đạo hiếu; có thể trị quốc, lập thân, rạng danh đời sau, trở thành vinh quang cho gia tộc và cha mẹ; tuyệt đối không phải cái gọi là công danh lợi lộc để hiển thị bản thân có năng lực, có địa vị mà hiện nay vẫn nói.
Nói cách khác, dương danh không phải để hiển thị bản thân, mà là để truyền thừa mỹ đức cho tổ tiên. Khiến cho hậu thế dùng mỹ đức lập thân, lấy nhân đức làm vinh quang, nhà nhà đều truyền bá đạo nghĩa, đạt được mục đích lấy đức để cảm hóa thiên hạ.
Kể chuyện
Lâu Sư Đức nhân hậu và khoan thứ
Ngoài việc bảo vệ thân thể của bản thân, mọi người càng nên coi trọng hơn đến việc tu dưỡng tâm tính, bồi dưỡng mỹ đức khoan dung nhẫn nại. Tục ngữ có câu: lòng nhẫn “hữu dung nãi đại” (tức là: nhờ bao dung mà trở nên vĩ đại) chân chính có thể nạp trăm con sông.
Lâu Sư Đức, tự Tông Nhân, là người Nguyên Vũ Trịnh Châu, từng là tể tướng thời Võ Tắc Thiên. Lâu Sư Đức làm quan 30 năm, giỏi phát hiện và tiến cử nhân tài, có lòng khoan dung và độ lượng với người, lòng nhân hậu khoan thứ của ông nổi tiếng đương thời.
Có một lần, Lâu Sư Đức và Nội sử Lý Chiêu Đức cùng nhau đi bộ, vì cơ thể ông quá mập, không đi được nhanh, nên Lý Chiêu Đức phải dừng lại để đợi ông nhiều lần, nhưng ông vẫn không theo kịp, Lý Chiêu Đức tức giận gọi ông là một gã nhà quê, Lâu Sư Đức nghe xong không những không tức giận mà còn cười, đáp: “Tôi không phải là một gã nhà quê, thì còn ai nữa?” Qua câu chuyện nhỏ này có thể thấy được tính khí tốt và lòng đại độ lượng của ông.
Sau này, em trai Lâu Sư Đức được bổ nhiệm làm Thứ sử Đại Châu, trước khi em trai đi nhậm chức, Lâu Sư Đức đã nói: “Ta bây giờ là tể tướng, đứng đầu quần thần, hôm nay em lại đi làm thứ sử Đại Châu, vinh quang và ân sủng tập trung ở một nhà, không tránh khỏi người khác sinh tâm ghen tị, chúng ta phải làm thế nào mới có thể bảo toàn tính mệnh và tránh khỏi tai họa?” Em trai ông quỳ xuống thưa: “Có người đã từng nhổ nước bọt vào mặt em, em không nói gì, chỉ lẳng lặng lau sạch đi. Em sẽ lấy đó để tự khuyên răn bản thân, quyết sẽ không làm anh phải lo lắng!” Lâu Sư Đức nói: “Đây là điều ta lo lắng nhất, người ta nhổ nước bọt vào mặt em, cho thấy rằng họ đang rất tức giận, em còn lau đi biểu thị sự không vừa ý của em, như vậy càng tăng thêm tức giận cho họ. Vì vậy, nước bọt trên mặt em, không được lau đi, hãy để nó tự khô. Tiếp nhận hết thảy những điều này với nét mặt tươi cười”.
Câu chuyện này nói với mọi người rằng, điều thực sự khiến Lâu Sư Đức trở nên nổi tiếng, lưu truyền thiên cổ không phải là địa vị tể tướng. Hàng nghìn năm qua đã có biết bao nhiêu bậc đế vương, tướng lĩnh, nhưng người thực sự được kính trọng ngưỡng mộ thì không có bao nhiêu, tất nhiên đó phải là những người có đức hạnh xuất chúng. Lâu Sư Đức mỹ danh truyền rộng là bởi vì khí độ, bao dung của ông, vì vậy khiến người ta tôn kính, ông đã thành tựu được điển hình mỹ đức mà Khổng Tử nói, đó là lấy đức lập thân, lấy đức truyền danh.
Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa Ấu Học Quỳnh Lâm của Zhengjian.org, thêm phần bút đàm để lý giải nội dung bài học
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248599
Ngày đăng: 22-05-2023
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.
ChanhKien.org