Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Nguyên văn chữ Hán và chú âm
上(ㄕㄤˋ) 古(ㄍㄨˇ) 結(ㄐㄧㄝˊ) 繩(ㄕㄥˊ) 記(ㄐㄧˋ) 事(ㄕˋ),
倉(ㄘㄤ) 頡(ㄐㄧㄝˊ) 制(ㄓˋ) 字(ㄗˋ) 代(ㄉㄞˋ) 繩(ㄕㄥˊ)。
龍(ㄌㄨㄥˊ) 馬(ㄇㄚˇ) 負(ㄈㄨˋ) 圖(ㄊㄨˊ),
伏(ㄈㄨˊ) 羲(ㄒㄧ) 因(ㄧㄣ) 畫(ㄏㄨㄚˋ) 八(ㄅㄚ) 卦(ㄍㄨㄚˋ);
洛(ㄌㄨㄛˋ) 龜(ㄍㄨㄟ) 呈(ㄔㄥˊ) 瑞(ㄖㄨㄟˋ),
大(ㄉㄚˋ) 禹(ㄩˇ) 因(ㄧㄣ) 列(ㄌㄧㄝˋ) 九(ㄐㄧㄡˇ) 疇(ㄔㄡˊ)。
Bính âm
上(Shàng) 古(gǔ) 结(jié) 绳(shéng) 记(jì) 事(shì),
仓(cāng) 颉(xié) 制(zhì) 字(zì) 代(dài) 绳(shéng)。
龙(Lóng) 马(mǎ) 负(fù) 图(tú),
伏(fú) 羲(xī) 因(yīn) 画(huà) 八(bā) 卦(guà);
洛(luò) 龟(guī) 呈(chéng) 瑞(ruì),
大(dà) 禹(yǔ) 因(yīn) 列(liè) 九(jiǔ) 畴(chóu)。
Âm Hán Việt
Thượng cổ kết thằng ký sự,
Thương Hiệt chế tự đại thằng.
Long mã phụ đồ,
Phục Hy nhân họa Bát Quái;
Lạc quy trình thụy,
Đại Vũ nhân liệt Cửu trù.
Giải nghĩa từ ngữ
1. 結繩記事 (Kết thằng ký sự): Trước khi chữ viết được phát minh, người ta sử dụng nút thắt để ghi nhớ mọi thứ; việc nhỏ thắt nút nhỏ, việc lớn thắt nút lớn, các hình thức thắt nút khác nhau, diễn đạt nội dung khác nhau.
2. 倉頡/仓颉 (Thương Hiệt): Còn viết là “蒼頡/苍颉”, là người sáng tạo ra chữ viết trong truyền thuyết Trung Hoa.
3. 製字 (Chế tự): Sáng tạo ra chữ viết.
4. 代 (Đại): Thay thế.
5. 龍馬 (Long mã): Một loài rồng có hình dạng giống con ngựa trong thần thoại và truyền thuyết cổ đại.
6. 負 (Phụ): Cái lưng.
7. 圖 (Đồ): Hà Đồ, tên sách.
8. 伏羲 (Phục Hy): Cũng viết là Bào Hy, Mật Hy, Phục Hy; hiệu Thái Hạo, một trong Tam Hoàng, đầu người thân rắn (cũng có thuyết nói là mặt người thân rồng).
9. 因 (Nhân): Dựa theo, y theo.
10. 八卦 (Bát Quái): Tám đồ hình cơ bản do Phục Hy thị phát minh, tám đồ hình được sắp xếp và kết hợp với nhau, được sử dụng để tượng trưng cho các sự vật và sự biến hóa trong vũ trụ.
11. 洛龜 (Lạc quy): Rùa thần xuất hiện trên sông Lạc, Lạc Thủy thuộc tỉnh Thiểm Tây.
12. 呈瑞 (Trình thụy): Điềm lành xuất hiện.
13. (列) Liệt: Liệt kê ra.
14. 九疇 (Cửu trù): Chín phép tắc lớn cai trị thiên hạ. Loại, chủng loại.
Bản dịch tham khảo
Vào thời Thượng cổ, người ta buộc những nút thắt có kích cỡ khác nhau trên dây thừng để ghi nhớ các sự việc. Đến thời Hoàng Đế, Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết mới thay thế phương pháp thắt nút ghi lại các sự việc. Thời Phục Hy thị, có Long Mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà mang theo “Hà Đồ”, Phục Hy dựa vào “Hà Đồ” mà vẽ ra Bát Quái. Thời Đại Vũ trị thủy, trên sông Lạc Thủy xuất hiện rùa thần mang trên lưng “Lạc Thư” báo hiệu điềm lành, Đại Vũ căn cứ những văn tự trên lưng rùa đã liệt kê ra chín pháp tắc lớn để trị lý thiên hạ.
Đọc sách luận bút
Bản chất của văn hóa Trung Quốc: Nội Đạo ngoại Nho, Thiên nhân hợp nhất
Bài học này trực tiếp chỉ ra rằng nền văn minh Trung Hoa là do Thần truyền thụ, đó là Thiên ý hiển nhiên như vậy. Thần đã sử dụng nhiều cách như Hà Đồ hay Lạc Thư, hay là căn cứ vào thiên tượng và thế gian vạn tượng mà tạo ra cách viết văn tự v.v., từ đó dạy các bậc Thánh nhân để họ truyền lại cho con người một cách có trật tự. Cho nên, trong lịch sử thần thoại Thượng cổ, từ khi Nữ Oa tạo ra con người trở về sau, là thông qua các vị Thần giáng thế mà đứng đầu là Thánh Vương, đã an bài một cách có hệ thống những loại văn hóa cần lưu lại trên thế gian, để con người có thể hiểu được sự vận hành của Thiên đạo, sự ảo diệu của Đạo pháp, luôn luôn tuân theo quỹ đạo Thiên nhân hợp nhất, hiểu được đạo làm người chân chính, giữ gìn thiên tính lương thiện. Đồng thời để cho con người lĩnh hội được đạo lý phổ quát trong quá trình lịch sử rằng: “Xa rời Thiên Đạo, đạo đức bại hoại là nguyên nhân căn bản nhất của các đại nạn”.
Do đó, văn hóa Trung Hoa có đặc điểm là nội Đạo ngoại Nho, nghĩa là tất cả tư tưởng văn hóa chính thống, tín ngưỡng, tập tục, thi từ, nghệ thuật, kỹ năng của người Trung Hoa đều do Thần truyền lại, trước tiên phải kính Thiên tín Thần, dựa trên cơ sở đó, nghiêm khắc giữ gìn đạo lý làm người, chiểu theo Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín của Nho gia để quy phạm cụ thể những hành vi thường nhật, khiến cho xã hội con người có thể vận hành một cách chính thường. Nói thẳng ra thì Nho và Đạo là cùng một gia phái, cho nên, cuối cùng các Nho sinh đều hiểu rằng quyển “Kinh Dịch” của Đạo gia là kinh điển đứng đầu các kinh thư, là cội nguồn của mọi tư tưởng văn hóa, có thể giải thích vạn sự vạn vật. Nhưng giữa con người với nhau, hành vi của mỗi cá nhân, quan hệ qua lại giữa con người với nhau phải phù hợp với biểu hiện của con người và cách làm con người, hành động theo những hành vi của con người, đây chính là tác dụng của Nho gia, duy trì hoạt động bình thường của xã hội con người. Đó là tiêu chuẩn cụ thể của Đạo ở tầng diện này trong thế gian con người.
Vì vậy, hành vi bên ngoài của người Trung Quốc là Nho gia, giáo dục cũng là tư tưởng làm người của Nho gia. Trên thực chất, Nho gia tiến thêm một bước, để có thể khám phá Đại Đạo và chân lý của vũ trụ, đi theo con đường tu đạo để phản bổn quy chân. Vì vậy Thiên nhân hợp nhất luôn là đặc điểm cơ bản của văn hóa Trung Hoa. Văn hóa được truyền từ Thiên thượng, từ nhân đạo đến Thiên đạo, cũng chỉ thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và thượng giới, để con người không quên nguồn gốc và chốn quay về của mình. Cho nên, nghĩa gốc của văn hóa là chỉ sự giáo hóa văn minh, để cho Thiên ý được thông qua Thiên tượng mà diễn hóa thành một phần mà con người có thể lý giải để truyền thừa và trở thành văn hóa nhân loại, dùng đạo đức thành cốt lõi để con người có thể hiểu được đạo lý, cho nên còn được gọi là văn minh, quan sát Thiên đạo mà hiểu rõ đạo lý, không ngừng giáo hóa nhân loại, liên tục dạy con người phải trọng đức kính Thiên.
Đạo mà Lão Tử giảng, chính là bản chất văn hóa mà người Trung Hoa có thể hiểu rõ nhất. Lão Tử nói: “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên). Nghĩa là con người lấy Pháp, lấy Đạo làm Thầy, cuối cùng trở về với tự nhiên. Thiên địa vạn vật vạn tượng đều là biểu hiện của tự nhiên, ảo diệu vô cùng. Con người phải thuận theo tự nhiên. Vì vậy, Kinh Dịch của Phục Hy biểu thị cái Đạo của Đạo gia, tức cái lý của Âm Dương. Bệnh lý của Trung Y chính là xuất phát từ cái lý của Đạo gia cho rằng cơ thể con người là tiểu vũ trụ, âm dương điều hòa thì sống, âm dương mất cân bằng hoặc tách biệt sẽ dẫn đến bệnh tật hoặc tử vong. Tư tưởng trị quốc xử thế của Nho gia, coi trọng ngũ thường Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín và không đi sang cực đoan của Trung Dung, kỳ thực cũng chính là thể hiện của âm dương ngũ hành của Đạo gia tại thế gian con người.
Vì vậy người ta mới nói rằng, Bát Quái (Tiên thiên “Kinh Dịch”) do Phục Hy quan sát thiên văn và vạn vật mà tạo ra là nguồn gốc căn bản của tư tưởng Nho gia, là bản nguyên của mọi trường phái văn hóa, cũng vì vậy, bài học này cần giảng cho các em về việc Phục Hy đã nhận được truyền ý của Thần như thế nào, nguồn gốc lịch sử của việc Ngài dựa vào Hà Đồ mà tạo ra Kinh Dịch, và nguồn gốc của văn hóa. Mục đích để cho con trẻ nhớ cho kỹ đến tổ tiên, nhớ cho kỹ về cội nguồn của mình, không xa rời Thiên đạo, không bại hoại đạo đức.
Vì vậy, trọng tâm của văn hóa là dùng Thiên đạo để giáo hóa con người. Điều thể hiện ở tầng bề mặt nhất chính là quy phạm đạo đức của văn hóa Nho gia, tư tưởng nhân luân và trí tuệ Trung Dung. Tất nhiên, từ gốc rễ đó mà sinh ra muôn màu muôn vẻ hoa trái như nghệ thuật, kỹ nghệ, thơ ca, văn học, kiến trúc, đạo cụ v.v., tất cả mọi vật phẩm và nghệ thuật mà con người sáng tạo ra đều là biểu hiện của văn hóa.
Trong chữ “Giáo” ẩn chứa chữ “Hiếu” thể hiện ý Trời
Về chữ viết, người xưa luôn cho rằng nó cũng là do Thần truyền xuống, ngoài việc giúp cuộc sống của con người thuận tiện hơn, mục đích chính là ghi lại toàn bộ quá trình truyền thừa của lịch sử văn minh, liên tục ghi chép và khai thị những tư tưởng của Nho gia và Đạo gia, cùng với tư tưởng của Phật gia sau này, giúp con người bước trên con đường chính Đạo, và không bao giờ quên nguồn gốc của mình.
Chúng ta chỉ nói sơ qua về chữ “Giáo” trong giáo dục, tại sao lịch sử lại chọn Nho gia để làm chủ đạo cho nền giáo dục của Trung Hoa, và giao trọng trách cho Khổng Tử là người dẫn đường nhận nhiệm vụ hướng đạo, làm cho ông trở thành bậc thầy về giáo dục của toàn nhân loại? Hơn nữa, vì sao Khổng Tử lại dạy các đệ tử về đạo Hiếu trước tiên, và coi trọng việc dạy về đạo Hiếu như vậy? Tại sao từ nhà Hán đến nhà Thanh đều giảng dùng hiếu để trị vì đất nước? Vì đạo Hiếu là khởi đầu của đạo Nhân mà Khổng Tử đã dạy. Điều này là bởi vì khi Thần tạo ra chữ Hán, liền quy định rằng cốt lõi của nền giáo dục Trung Hoa chính là phải bắt đầu từ đạo Hiếu, chúng ta hãy nhìn chữ “教” (Giáo), nó do chữ “孝” (Hiếu) và bên cạnh là chữ 文 (văn) biến thể tổ hợp thành, vốn là trách nhiệm của các thánh vương cổ đại, quy chính đạo đức phải bắt đầu tiến hành từ việc truyền thừa và giáo hóa cho bách tính về đạo Hiếu. Vì vậy, khi các chữ được tạo ra thì mục đích chính và phương hướng giáo dục con người trong tương lai đã được đặt định sẵn. Thông qua tấm gương của bản thân hai vị Đế Nghiêu và Đế Thuấn về lòng nhân từ hiếu thảo và việc thực tiễn đích thân trực tiếp tham gia đã đặt nền tảng văn hóa cho các vị hoàng đế sau này dùng Hiếu đạo để trị quốc. Như thế Khổng Tử chỉ là tiến hành chỉnh lý tổng kết và hệ thống hóa nền văn hóa mà các vị thánh vương này đã để lại. Đây cũng chính là sứ mệnh của Khổng Tử, hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà có.
Kể chuyện
Phục Hy thị, thủy tổ của văn minh
Phục Hy, còn gọi là Bào Hy, Mật Hy, Phúc Hy v.v., một trong ba vị Tam Hoàng, đầu người mình rắn (có thuyết nói là mặt người mình rồng). Trong thần thoại cổ đại, sự ra đời của Phục Hy thị rất thần kỳ, mẹ của ông là Thánh nữ của Hoa Tư Quốc, một ngày nọ du ngoạn đến đầm Lôi, dùng chân dẫm lên dấu chân của Lôi Thần để lại, bà cảm động mà hoài thai sinh ra Phục Hy.
Truyền thuyết kể rằng, Phục Hy thị học con nhện chăng lưới mà phát minh ra lưới đánh cá, ông dạy cho bách tính bện dây đan lưới bắt cá và chim, Ông còn dạy dân câu cá, săn bắn, thuần phục dã thú. Phục Hy còn mang ánh lửa sáng cho người dân, dạy dân chúng dùng lửa để nấu thức ăn trước khi ăn. Ông còn làm ra cây đàn sắt ngũ thập huyền, là loại nhạc khí ra đời sớm nhất.
Phục Hy còn tiến thêm một bước sáng tạo ra Bát Quái, dựa trên tám đồ hình cơ bản để tượng trưng cho hết thảy sự vật trong vũ trụ một cách cụ thể và tinh tế. Tương truyền vào một ngày nọ, trên sông Hoàng Hà nổi lên một con rồng giống như ngựa, mang Hà Đồ trên lưng, trên đồ hình gồm có nhiều chấm đen và trắng, Phục Hy đã dựa vào các chấm đó mà vẽ thành Bát Quái, tám loại ký hiệu này phối hợp với nhau có thể dùng để nói rõ về các loại tình huống của trời đất và vạn vật. Phát minh này đã đưa Phục Hy trở thành một trong những người sáng lập nền văn minh Trung Hoa.
Truyền thuyết kể rằng, Phục Hy thị sau này trở thành vị vua phương Đông (Đông phương chi đế) tay cầm Viên Quy cai quản vùng đất phương Đông rộng lớn, người hỗ trợ ông cai quản phương Đông là Mộc Thần Câu Mang, Câu Mang là vị Thần cai quản vạn vật sinh sôi vào mùa xuân, tượng trưng cho sức sống vô tận.
Thương Hiệt tạo chữ
Trước khi chữ viết được phát minh, con người chỉ có thể dùng dây thừng để ghi lại sự việc, việc lớn thắt nút dây lớn, việc nhỏ thắt nút dây nhỏ; nhưng cuộc sống ngày một phức tạp hơn, sự việc ngày một nhiều, việc kết dây thừng vì thế không còn thích hợp. Vì vậy, Hoàng Đế đã ra lệnh cho sử quan là Thương Hiệt tạo ra chữ viết. Thương Hiệt đã quan sát hình tượng của Mặt Trời, Mặt Trăng, núi sông và vết tích dấu chân của côn trùng, cá, chim và thú để lại, rồi phát minh ra thứ chữ viết hình vuông lâu đời nhất, trí huệ nhất trên thế giới.
Truyền thuyết kể rằng khi Thương Hiệt thành công trong việc tạo ra chữ, ban ngày trời đổ mưa thóc, ban đêm nghe thấy tiếng quỷ khóc. Trời giáng mưa thóc là để chúc mừng con người có chữ viết ghi lại vạn vật và lưu truyền văn hóa; ma quỷ khóc vì có chữ viết, dân trí ngày một khai sáng, khiến chúng không còn lừa được con người nữa.
(Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa “Ấu Học Quỳnh Lâm” của Zhengjian.org)
Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248612
Ngày đăng: 24-11-2023
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.
ChanhKien.org