Tác giả: Lưu Như
[ChanhKien.org]
Nguyên văn chữ Hán và chú âm
堯(ㄧㄠˊ) 帝(ㄉㄧˋ) 作(ㄗㄨㄛˋ) 圍(ㄨㄟˊ) 棋(ㄑㄧˊ),以(ㄧˇ) 教(ㄐㄧㄠˋ) 丹(ㄉㄢ) 朱(ㄓㄨ);
武(ㄨˇ) 王(ㄨㄤˊ) 作(ㄗㄨㄛˋ) 象(ㄒㄧㄤˋ) 棋(ㄑㄧˊ), 以(ㄧˇ) 象(ㄒㄧㄤˋ) 戰(ㄓㄢˋ) 羿(ㄧˋ)。
……筆(ㄅㄧˇ) 乃(ㄋㄞˇ) 蒙(ㄇㄥˊ) 恬(ㄊㄧㄢˊ) 所(ㄙㄨㄛˇ) 造(ㄗㄠˋ),
纸(ㄓˇ) 乃(ㄋㄞˇ) 蔡(ㄘㄞˋ) 倫(ㄌㄨㄣˊ) 所(ㄙㄨㄛˇ) 為(ㄨㄟˊ)。
Bính âm
尧(Yáo) 帝(Dì) 作(zuò) 围(wéi) 棋(qíˊ),以(yǐ) 教(jiào) 丹(Dān) 朱(Zhū);
武(Wǔ) 王(Wáng) 作(zuò) 象(xiàng) 棋(qí), 以(yǐ) 象(xiàng) 战(zhàn) 羿(yì)。
……笔(bǐ) 乃(nǎi) 蒙(Méng) 恬(Tián) 所(suǒ) 造(zào),
纸(zhǐ) 乃(nǎi) 蔡(Cài) 伦(Lún) 所(suǒ) 为(wéi)。
Chú âm
Âm Hán Việt
Nghiêu Đế tác vi kỳ, dĩ giáo Đan Chu;
Vũ Vương tác tượng kỳ, dĩ tượng chiến nghệ;
bút nãi Mông Điềm sở tạo;
chỉ nãi Thái Luân sở vi.
Giải nghĩa từ ngữ
(1)堯帝 (Nghiêu Đế): Một trong Ngũ Đế, hậu duệ của Hoàng Đế, sống tiết kiệm đơn giản, siêng năng trị quốc, yêu thương dân chúng.
(2)丹朱 (Đan Chu):Con trai Nghiêu Đế.
(3)武王 (Vũ Vương): Chu Vũ Vương, con trai Chu Văn Vương, diệt nhà Ân Thương lập ra triều Chu.
(4)象 (Tượng): Tượng trưng.
(5)乃 (nãi):Là.
(6)蒙恬 (Mông Điềm): Danh tướng nhà Tần, giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, từng dẫn quân đánh lui Hung Nô, tu sửa Trường Thành.
Bản dịch tham khảo
Tương truyền, vua Nghiêu phát minh ra cờ vây để dạy cho con là Đan Chu, giúp Đan Chu mở mang trí huệ và ước thúc thân tâm. Chu Vũ Vương phát minh ra cờ tướng, dùng quân cờ tượng trưng cho hai quân đối chọi, qua đó nghiên cứu các sách lược. Danh tướng nhà Tần là Mông Điềm tạo ra bút lông cải tiến. Thái Luân, một hoạn quan thời Đông Hán đã cải tiến kỹ thuật làm giấy.
Đọc sách luận bút
Kiến thức được giảng trong bài học này thì mọi người đều rất quen thuộc, mỗi phát minh đều là một tài nghệ được lưu truyền cho đến ngày nay và ảnh hưởng đến toàn thế giới, đặc biệt là nghề làm giấy, có thể được gọi là một trong tứ đại phát minh của Trung Quốc. Thái Luân đã được người dân tôn kính hàng nghìn năm và được coi là “Thần giấy”. Trong cuốn sách “Bảng xếp hạng 100 người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất trong tiến trình lịch sử loài người” của nhà khoa học Mỹ Michael H. Hart, Thái Luân được xếp ở vị trí thứ bảy, trước Columbus và Einstein. Có thể thấy đó là cống hiến to lớn của ông đối với sự phát triển của văn hóa thế giới. Giấy là vật dụng hàng ngày không thể thiếu hiện nay.
Bắt đầu từ câu thành ngữ “Học nhiều năm xe”
Nói đến tầm quan trọng của nghề làm giấy, điều có sức thuyết phục nhất chính là ba câu chuyện thành ngữ: học phú ngũ xa (học nhiều năm xe), vi biên tam tuyệt (đứt dây sách ba lần), hãn ngưu sung đống (trâu kéo xe sách đổ mồ hôi, sách chất đến đỉnh cột nhà).
Ngày nay người ta dùng câu “học nhiều năm xe” để hình dung kiến thức uyên bác của một người nào đó, nhưng vì sao phải dùng năm xe để hình dung học thức uyên bác? Bởi vì trước khi phát minh ra giấy, người xưa thường viết chữ trên những thẻ tre hay thẻ gỗ, những thẻ này được nối với nhau để trở thành một “quyển sách” hay một “cuốn sách”. Mọi người nghĩ thử, nếu viết một cuốn sách dài, số lượng sẽ đáng kinh ngạc, rất nhiều cuốn sách cộng lại với nhau sẽ trở thành gói đồ khổng lồ rất nặng, nếu muốn đem theo một số sách bên mình, phải dùng đến xe để vận chuyển.
Nghe kể rằng vào thời Chiến Quốc, ở nước Tống có một nhà tư tưởng tên là Huệ Thi, ông ta giỏi biện luận, viết rất nhiều sách, thường nhận lời ra ngoài dạy học, sách mà ông mang theo bên mình không chỉ là vài cuốn, mà là xếp đầy năm xe, nên có điển cố “học nhiều năm xe”.
Còn có chuyện Khổng Tử đọc “Kinh Dịch”, bởi vì đọc quá nhiều lần nên sợi dây thừng nối các thẻ tre đã bị đứt ba lần, do đó câu thành ngữ “vi biên tam tuyệt”, vi:韦 là sợi dây thừng bằng da bò bị đứt ba lần, mô tả những người học tập chăm chỉ, chịu khó.
Vào thời lưỡng Hán, người ta kể rằng nhà văn học Đông Phương Sóc đã đẩy xe chở diệu kế trị quốc vào cung, được yết kiến Hán Vũ Đế. Bản tấu chương của ông sử dụng ba nghìn thẻ tre, phải do hai võ sĩ cường tráng mới khiêng vào cung được.
Trong những năm dài không có giấy, không chỉ văn nhân viết sách, đọc sách gặp khó khăn mà Hoàng đế phê duyệt tấu chương cũng rất vất vả, cả ngày mệt mỏi. Số lượng lớn thẻ tre, sách vở không chỉ khó bảo quản, vận chuyển nặng nhọc, bị đứt dây thừng, cần sắp xếp lại các thẻ tre khi bị rời ra, nên thứ tự có thể bị đảo lộn, nhiều sách cổ gặp vấn đề này, cho nên rất bất tiện.
Tất nhiên khi có quá nhiều sách, người ta tự nhiên phải sử dụng thành ngữ “hãn ngưu” (trâu đổ mồ hôi hột) và “sung đống” (đầy cả một nhà) để mô tả sự nặng nề và số lượng khổng lồ của nó, tạo thành thành ngữ “hãn ngưu sung đống”. Nguồn gốc của những thành ngữ này có một điểm chung, đó là tài liệu viết quá đồ sộ.
Các văn bản viết của cổ đại
Chữ viết sớm nhất thời cổ đại là loại chữ được khắc trên mai rùa hoặc xương động vật, gọi là giáp cốt văn (chữ giáp cốt). Đến triều đại nhà Thương và nhà Chu, chữ được khắc trên đồ đồng như chuông và đỉnh, hoặc khắc trên đá, thường được gọi là Chung đỉnh văn hay Thạch cổ văn. Xương, mai rùa, đá rất cứng nên hầu hết mọi người không thể khắc lên chúng với số lượng lớn, cũng như không tiện đem theo. Nó chủ yếu được sử dụng để ghi chép về các lễ tế quốc gia và bói toán. Cuối thời Xuân Thu, người ta bắt đầu dùng “Sách thẻ tre” (giản độc) thay cho mai rùa và xương thú. “Độc” (thẻ gỗ) nghĩa là ván in hay gọi là mộc bản.
Vào thời đó, người ta viết thư thường dùng những thẻ tre dài một xích (1/3m) để viết chữ nên sau này thư từ được gọi là “xích độc”. Thẻ tre nhẹ hơn nhiều so với mai rùa và xương thú nhưng vẫn cồng kềnh. Ưu điểm duy nhất là nó rẻ.
Thời đó lụa cũng được dùng làm chất liệu để viết chữ, nhưng lụa giá rất đắt đỏ, thời nhà Hán, giá một tấm lụa tương đương với 720 cân gạo. Vì vậy giấy thời đó là ám chỉ vải lụa, loại giấy được sử dụng là loại giấy có gốc từ lụa.
Công nghệ làm giấy của Thái Luân truyền ra thế giới
Mãi đến thời Đông Hán, Thái Luân mới sử dụng vỏ cây, vải, lưới đánh cá và các vật liệu giá rẻ khác để làm giấy, và phát minh ra kỹ thuật làm giấy làm cho giấy trở thành vật liệu rẻ và phù hợp để viết. Loại giấy làm ra này được Thái Luân gọi là “chỉ” (纸). Nhưng sau này người ta vẫn dùng chữ “chỉ” (紙) để gọi loại giấy do Thái Luân làm ra.
Nghề làm giấy hiện đại sử dụng máy móc để thay thế nhân công, nhưng các nguyên lý, quy trình cơ bản và nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất giấy về cơ bản giống với cách làm giấy của Thái Luân 1900 năm trước.
Kỹ nghệ làm giấy của Trung Quốc sau đó thông qua nhiều con đường khác nhau đã lần lượt được truyền nhập vào Triều Tiên, Nhật Bản, Ả Rập và châu Âu, cuối cùng lan truyền đến châu Mỹ và Hoa Kỳ.
Năm 1276, nhà máy giấy đầu tiên được xây dựng trên bán đảo Ý để sản xuất giấy gai dầu. Nhà máy giấy đầu tiên được xây dựng ở Anh vào năm 1494, nhưng kỹ thuật thấp và chất lượng kém. Vào thời Càn Long, họa sĩ người Pháp tên Michel Benoist, làm việc trong triều đình nhà Thanh đã vẽ những bức tranh về kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc và gửi về Paris, kỹ thuật làm giấy tiên tiến của Trung Quốc đã được phổ biến rộng rãi ở châu Âu.
Cho đến năm 1690, một nhà máy giấy mới được xây dựng tại Philadelphia Hoa Kỳ, muộn hơn nghề làm giấy của Thái Luân tròn 1.585 năm.
Kể chuyện
Cờ vây
Các văn nhân cổ đại Trung Quốc phải có đủ bốn tài nghệ “cầm kỳ thư họa” để tu thân, dưỡng tính. Trong đó kỳ là nói đến cờ vây. Tương truyền, con trai của Đế Nghiêu là Đan Chu, có tính khí bướng bỉnh và không tiếp nhận dạy dỗ, để Đan Chu tĩnh tâm để học tập, Đế Nghiêu đã phát minh ra cờ vây, dạy Đan Chu chơi để rèn luyện tinh thần và rèn luyện tính khí. Kể từ đó, cờ vây đã trở thành một hạng mục quan trọng để các trí thức xưa tu tâm dưỡng tính, đồng thời nó cũng là một trong những tinh hoa của văn hóa Trung Hoa.
Các tên khác của cờ vây như “Dịch”, “Sừ”, “Thủ Đàm”, “Tọa ổn”, “Hắc Bạch”, “Phương viên”, “Lạn Kha”… Gọi “Hắc Bạch” là các viên cờ có hai màu đen và trắng, ý nghĩa là Âm Dương. Quân đen 181 viên, quân trắng 180 viên. Gọi “Phương viên”, ý nghĩa là trời tròn đất vuông. Phương nghĩa là vuông, là chỉ bàn cờ, do 19 đường ngang và 19 đường dọc tạo thành. “Viên” (圆) nghĩa là tròn, chỉ các quân cờ hình tròn.
Biệt danh “Lạn Kha” xuất phát từ một truyền thuyết thần kỳ, trong “Thuật dị ký” của Nam triều có ghi rằng vào thời nhà Tấn, có một người tiều phu tên là Vương Chất, có một ngày đã vào núi Thạch Thất (nay là phía Đông Nam Cù Châu, tỉnh Chiết Giang) để đốn củi, anh ta nhìn thấy mấy đứa trẻ đang chơi cờ và ca hát. Vương Chất xem đánh cờ và nghe tiếng hát đến mê mẩn, không biết được thời gian trôi qua, cũng quên mất đói bụng. Một cậu bé đưa cho anh ta một trái tiên trông giống như hạt táo. Vương Chất ngậm nó trong miệng, bỗng không còn cảm thấy đói và khát. Ngay sau đó, cậu bé bảo anh ta rằng đã đến giờ phải về nhà. Vương Chất đứng dậy, phát hiện cái rìu dùng để đốn củi đặt một bên đã mục nát. Sau khi trở về nhà, mọi thứ hoàn toàn thay đổi hết, cả dân làng không ai nhận ra anh ta, những người cùng tuổi với anh đã qua đời. Từ đó về sau, cờ vây có tên gọi là “Lạn Kha”.
Phương pháp chơi cờ vây là mỗi người chơi lấy một quân cờ có một màu, đen đi trước rồi đến trắng, lần lượt đặt một quân cờ trên giao điểm của hai đường kẻ.
Kỹ thuật làm giấy
Trước khi phát minh ra giấy, người Trung Quốc đã khắc chữ Hán trên thẻ tre, thẻ gỗ, kim thạch, đồ đồng hoặc mai rùa xương thú, sau đó dùng dây thừng bằng da thuộc để nối các thẻ tre và thẻ gỗ thành một cuốn sách, nhưng sách thẻ tre rất nặng nề cồng kềnh, khó mang theo, đọc không thuận tiện. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, tuy sách lụa làm từ tơ rất tiện lợi, nhẹ nhàng nhưng giá cả lại đắt tiền, không được phổ biến rộng rãi.
Sau này, người ta phát minh ra giấy làm từ sợi gai dầu hoặc sợi gai, nhưng tính chất của giấy gai dầu thô ráp và không phù hợp để viết. Thời Hán Hòa Đế triều Đông Hán, một thái giám tên là Thái Luân đã đúc kết kỹ thuật làm giấy và kinh nghiệm của các bậc tiền nhân, cải tiến phương pháp làm giấy, tạo ra loại giấy nhẹ, chắc và phù hợp để viết.
Sau khi nghiên cứu thử nghiệm liên tục, Thái Luân nhận thấy các vật liệu như lưới đánh cá cũ, quần áo rách, vỏ cây, dây gai được ngâm và giã nát thành bột giấy, sợi nguyên chất được dùng để làm ra giấy rẻ tiền mà chất lượng tốt, mọi người gọi là “Thái Hầu chỉ” (giấy của Thái Hầu). Sau đó kỹ thuật làm giấy liên tục được đổi mới và cải tiến, đệ tử của Thái Luân là Khổng Đan đã sử dụng vỏ cây Thanh Đàn và rơm rạ để làm ra “Tuyên chỉ” (giấy Tuyên) thích hợp nhất cho thư pháp và hội họa.
(Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa “Ấu học Quỳnh Lâm” của Zhengjian.org)
ChanhKien.org