Bánh chưng, bánh giày cũng chính là món ăn đặc trưng của dân tộc Việt trong những ngày đầu năm mới. (Ảnh: Shutterstock)
“Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”…
Lòng thành ắt cảm động thần linh; Bánh ngon phải đến từ trời đất
Truyền thuyết kể rằng, thuở xưa vào thời vua Hùng Vương thứ 6, nhà vua có ý định muốn truyền ngôi vị. Nhân dịp đầu xuân, ngài cho gọi tất cả các hoàng tử lại, truyền rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.
Các hoàng tử đua nhau kẻ lên rừng, người xuống biển, tìm món ngon vật lạ, sơn hào hải vị để dâng lên vua cha, với hy vọng ngai vàng sẽ thuộc về mình.
Lang Liêu là con trai thứ 18 của vua Hùng Vương, tính tình hiền hậu, giản dị, hiếu thảo. Vì mẹ mất sớm, Lang Liêu không biết phải tìm ai chỉ bày, làm như thế nào đây? Thật lo lắng vô cùng!
Một đêm nọ, Lang Liêu chiêm bao thấy có một vị Thần Tiên báo mộng: “Này con, vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Liêu thức tỉnh, không có gì vui mừng hơn, chàng y theo lời Thần dạy chọn lấy gạo nếp thật tốt, lá dong xanh làm bánh chưng hình vuông tượng trưng cho Đất. Lang Liêu giã xôi làm bánh tròn, tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giầy. Lá xanh bọc ngoài, nhân ở bên trong bánh là tượng trưng cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Ngày thi mâm cỗ đã đến. Tất cả các hoàng tử nhộn nhịp, vui mừng bày mâm cỗ của mình ra. Của quý hiếm chưa từng thấy, màu sắc, mùi vị bắt mắt thơm ngon vô cùng.
Mâm cỗ bánh chưng, bánh giầy của Lang Liêu mộc mạc, giản dị. Mọi người chỉ trỏ, che miệng cười. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi. Lang Liêu kể lại sự tình. Vua ngẫm nghĩ, nếm thử thấy lạ, ngon, mặc dù đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa. Vua bèn truyền ngôi lại cho Lang Liêu. Ngài lại truyền cho dân chúng lấy loại bánh này làm lễ vật dâng cúng Trời, Đất, tổ tiên vào đầu năm. Kể từ đó, tục lệ này được lưu truyền. Mỗi khi đến dịp Tết Nguyên Đán, thì nhà nhà đều làm bánh chưng, bánh giầy cúng lễ.
Dân gian có câu:
“Bên ngoài bọc lá dong xanh
Bên trong nếp mỡ, đỗ hành hạt tiêu
Gói nghĩa tình, gói thương yêu
Dẻo thơm từ thuở Lang Liêu tới giờ”…
Có thể nói, bánh chưng bánh giầy trong tâm thức người Việt là biểu trưng cho truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Bánh chưng thể hiện được chữ hiếu của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ… chính vì thế mà phong tục dùng bánh chưng làm quà biếu dâng lên ông bà, cha mẹ cũng từ đây mà có.
Còn bánh giầy với hình tròn, màu trắng nõn, mặt trên hình vòng cung giống như bầu trời, người Việt xưa quan niệm rằng bầu trời là nơi cư ngụ của Thần linh vì vậy bánh giầy thường được dùng để tế Trời, tế Thần cầu mong thời tiết thuận lợi, cho một năm ấm no.
Bánh chưng, bánh giày cũng chính là món ăn đặc trưng của dân tộc Việt trong những ngày đầu năm mới.
Hai loại bánh này không chỉ đạt về chất lượng mà nó còn mang đậm ý nghĩa lịch sử. Đó là nét đẹp văn hóa truyền thống tồn tại mãi với thời gian, dù đất nước ta đã từng bị đô hộ 1000 năm Bắc thuộc, 20 năm dưới ách nhà Minh, hơn 100 năm bị thực dân Pháp xâm chiếm. Nhưng tập tục gói bánh chưng, bánh giầy dâng lên trời đất, tổ tiên vào dịp Tết cổ truyền không hề bị mai một.
Không những nấu bánh chưng, bánh giầy cúng vào dịp Tết, ở vùng Đất tổ Hùng Vương, ông cha ta còn hay tổ chức các cuộc thi làm bánh, thi nấu cơm, làm cỗ, đua thuyền, kéo co, v.v… Nói về tục lệ thi làm bánh thì rất phong phú, cũng có rất nhiều loại bánh, nhưng được xếp đầu bảng trong các đợt thi làm bánh vẫn là hai loại bánh chưng và bánh giầy.
Thi tài làm bánh mừng xuân mới
Cách thi làm bánh chưng, bánh giầy ở một số địa phương, đặc biệt tục lệ thi làm bánh giầy ở Yên Thư (Vĩnh Lạc) được tổ chức vào dịp hội làng khoảng từ mùng 3 tới mùng 7 tháng giêng âm lịch thật độc đáo, trang trọng, nghiêm túc nhưng cũng rất là thú vị và phong phú. Theo thông lệ, gia đình nào muốn tham gia cuộc thi thì đăng ký trước. Sau khi đăng ký xong, người thi chọn loại gạo nếp tốt, rồi dần sàng kỹ, chọn hạt đều, bỏ hạt lép… đồng thời cũng chuẩn bị sẵn sàng các loại nguyên liệu khác.
Trước khi cuộc thi bắt đầu, ngày mùng 3 người tham gia thi giã gạo cho thật trắng để kịp trưa mùng 4 đem góp cho giáp. Nhà có bao nhiêu con trai thì góp bấy nhiêu đấu gạo. Nếu nhà không có con trai thì cũng góp một xuất. Ngày mùng 5, gạo được trộn đều để giao cho người đăng cai. Người đăng cai phải ở thật chay tịnh, mỗi ngày phải tắm hai lần bằng nước gừng. Nước làm bánh phải xin ở làng Đình Xá (làng kết nghĩa với làng Yên Thư).
Theo lệ cổ truyền, từ chiều ngày mùng 4, làng Đình Xá có nhiệm vụ trông giữ giếng nước cho trong sạch, không để ai đến gánh. Giếng được che bằng chiếc lọng to. Sáng ngày mùng 5 mỗi giáp chọn ra 8 đôi chĩnh qua Đình Xá lấy nước. Khi gà vừa gáy sáng, dân làng đã thắp hương làm lễ đưa đoàn người khiêng chĩnh tiến sang làng Đình Xá. Đến nơi người Yên Thư thả mấy quan tiền xuống giếng theo lệ rồi mới múc nước. Tất cả mọi động tác từ múc nước đến gánh nước về làng đều phải thật khéo, thật nhanh. Đoàn người lấy nước về được bà con các giáp ra đón tại đầu làng với chiêng trống vang lừng, cờ xí rợp trời.
Bước vào làm bánh, quang cảnh nơi tập trung giã gạo thật là tưng bừng. Trong một cái sân rộng có che rạp, đặt bàn thờ trang hoàng lộng lẫy và các dãy ghế đặt khắp nơi cho các giáp tổ chức ăn uống đông vui để giã bánh.
Gạo được giã từ chiều mùng 5 đến tối mùng 6, đến rạng sáng mùng 7 thì xôi gạo nhuyễn. Sáng mùng 7 các giáp giã bánh trong tiếng chiêng tiếng trống náo nhiệt. Trước khi giã dân làng chôn cối xuống đất để khỏi bị xê dịch. Chày làm bằng tre non cạo hết tinh. Người giã bánh phải có kinh nghiệm, khi hạt xôi dẻo quẹo, nát hết là có thể ngừng chày để bắt bột kéo bánh, vê bánh. Người thợ khi bắt bánh thường xoa trứng gà vào tay thì bắt bánh mới không bị dính. Bánh giầy được làm ra nhỏ gọn trong lòng bàn tay, được đặt lên một lá mít hoặc lá chuối cắt tròn nhỏ. Bánh đạt tiêu chuẩn phải là bánh tròn, không nhăn gợn, bóng, ngon.
Mỗi giáp chọn lấy một quả nhất. Chấm thi có 4 người, trong đó cử ra một chủ tế. Chiếc bánh nhất được đặt vào một chiếc đĩa úp lá lên trên rồi đặt vào chính giữa mâm bánh. Dân làng tấp nập đưa kiệu khiêng mâm bánh ra đình. Người khiêng kiệu phải đi nhích từng bước trong khung cảnh cờ dong trống mở. Ba giáp đi thành ba đám rước tới một địa điểm gọi là “Bạch mã” thì cả 3 giáp đó dóng hàng ngang cùng đi. Lúc lý trưởng nổi tiếng trống ra lệnh: “Tây xướng”, “Đông xướng” thì cả 3 kiệu phải chen nhau chạy vào đình, cờ quạt nhang đèn bỏ lại phía sau. Cho nên các giáp phải chọn người khỏe, nhanh nhẹn để giữ kiệu cho khỏi đổ. Sau khi đưa bánh vào “Trình ngài” ở hậu cung, người ta mới chấm để chọn ra mâm bánh đạt giải nhất.
Tế trời đất, tổ tiên xong, bánh được chia cho tất cả dân làng. Mọi người vui vẻ đón nhận với mong muốn mọi việc của một năm mới khởi đầu tốt đẹp cho các nhà, cho dân làng. Cuộc thi làm bánh giầy ở các địa phương, nhất là ở làng Yên Thư (Vĩnh Lạc) mỗi độ tết đến xuân về đã thể hiện tính cộng đồng, tinh thần tập thể, sự sáng tạo tinh tế trong cuộc sống và sinh hoạt cộng đồng; đồng thời tiếp thu, kế thừa văn hóa truyền thống lịch sử ngàn năm của ông cha.
Tâm Thanh
NTD Việt Nam