Đi tìm ý nghĩa đích thực của Tết Nguyên đán trong một câu đối Tết quen thuộc. (Ảnh: Shutterstock)
Chỉ có 14 chữ, 6 danh từ không cầu kỳ mà giản dị và quen thuộc, nhưng mỗi tên gọi lại mang theo một câu chuyện thú vị và liên đới đến nhiều sự việc. Hãy bắt đầu với những khái niệm này trước khi khám phá ý nghĩa đích thực của Tết Nguyên đán mà không phải ai cũng biết.
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
Người Việt chẳng mấy ai là không biết câu đối Tết trứ danh này, chỉ 14 chữ mà tóm lược đầy đủ ý nghĩa ngày Tết Nguyên đán của dân tộc. Không biết câu đối ấy có từ khi nào và tác giả của nó là ai, nhưng điều đáng tiếc hơn là đa phần chúng ta chỉ dừng lại trên ý nghĩa bề mặt mà không tiếp cận đến tầng sâu văn hóa của nó. Bài viết này sẽ thử đưa ra một cách lý giải cá nhân có chút khác biệt, dựa trên góc nhìn văn hóa truyền thống, căn cứ vào các cổ thư, cổ tích… ngõ hầu giúp độc giả thêm hiểu biết và trân quý một truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc Việt.
Chỉ có 14 chữ, 6 danh từ không cầu kỳ mà giản dị và quen thuộc, nhưng mỗi tên gọi lại mang theo một câu chuyện thú vị và liên đới đến nhiều sự việc. Hãy bắt đầu với những khái niệm này trước khi khám phá ý nghĩa đích thực của Tết Nguyên đán mà không phải ai cũng biết.
Câu đối đỏ
Câu đối đã từng là một phần tất yếu trong ngày Tết cổ truyền của người Việt, thiếu câu đối thì không thành Tết. Câu đối Tết thể hiện điều gì: Truyền thống Nho học? Trí tuệ sâu sắc và thâm thúy được thể hiện trong chữ nghĩa? Lời chúc tụng và mong cầu một tương lai tốt đẹp hơn?… Câu đối phải tuân thủ những luật, quy tắc chặt chẽ về tìm chữ, đặt câu sao cho cân xứng về cả hình thức, âm thanh, và nội hàm; nhấn mạnh vào sự hàm súc giàu ý nghĩa trong khi hạn chế về số lượng ngôn từ. Có thể nói, câu đối là kết tinh của trí tuệ Nho học trong văn hóa dân gian.
Nhưng ta hãy lưu ý rằng nguyên thủy của câu đối Tết, là không xem trọng chữ nghĩa tinh tế. Chính màu đỏ (đỏ hồng, hồng đào) mới là quan trọng hơn, như được nhắc đến trong cổ tích về Thần Đồ và Uất Lũy.
Trong cổ thư “Sơn Hải Kinh” có chép truyện Thiên đế sai hai vị Thần mang tên Thần Đồ và Uất Lũy trấn ngự trên cây Đào mọc trên núi Độ Sóc cạnh biển Đông, cây Đào này cực kỳ to lớn, bóng rợp một vùng. Thần Đồ và Uất Lũy chuyên cai quản quỷ dữ, Thần sẽ dùng thừng bện bằng cây sậy để trói những con quỷ dữ phá phách, rồi đem cho hổ ăn thịt. Đến thời nhà Chu, bắt đầu có hình thức đầu tiên của câu đối Tết, gọi là đào phù. Đào phù là hai tấm gỗ đào hình chữ nhật treo hai bên cửa. Theo “Hậu Hán thư – Lễ nghi chí” thì: “Đào phù dài 6 tấc (khoảng 20 phân), rộng 3 tấc (khoảng 10 phân), trên đào phù viết tên hai vị Thần chế phục ác ma là Thần Đồ và Uất Lũy. Ngày mùng 1 Tết, treo đào phù ở cửa, có thể khiến trăm loài quỷ đều sợ hãi tránh xa”.
Đến thời Ngũ Đại, trong cung đình nhà Tây Hán bắt đầu viết câu đối lên đào phù. Theo “Tống sử – Thục thế gia” có viết rằng: Hậu Thục chủ Mạnh Sưởng lệnh cho học sĩ Chương Tốn viết lên đào phù 2 câu đối:
Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân
Tạm dịch:
Năm mới thừa phúc lành
Tết đẹp mãi trường xuân.
Đây là câu đối Tết đầu tiên trong lịch sử.
Cổ tích Việt Nam thì cho rằng cây Đào trên núi Độ Sóc ở cạnh biển Đông chính là vùng đất của người Việt ngày nay. Còn kể thêm rằng vào ngày cuối năm, Thần Đồ và Uất Lũy lên chầu Ngọc Hoàng Thượng đế nên lũ quỷ lại từ biển lên bờ phá phách. Dân gian có câu “vị Thần nể cả cây đa”, vì quỷ sợ Thần Đồ, Uất Lũy nên nó cũng sợ luôn cả cây đào, cả màu hồng đỏ của hoa đào. Vậy nên dân chúng bẻ cành đào cắm vào lọ để trong nhà, lại lấy giấy hồng điều vẽ hình hai ông Thần Đồ, Uất Lũy để dán hai bên cửa. Lâu dần hình vẽ được thay bằng chữ viết “Thần Đồ, Uất Lũy” rồi tiến dần đến hình thức câu đối Tết như ta biết ngày nay.
Còn theo chính sử, mãi đến thời nhà Trần thì thú chơi câu đối Tết ở nước ta mới trở nên phổ biến. Nhưng dù ở đâu, thì mục đích ban đầu của câu đối Tết cũng là để trấn tà trừ quỷ, chiêu cát trừ hung.
Cây nêu
Sự tích cây nêu lại là lịch sử cuộc chiến đấu của người Việt cổ với quỷ trên đất này. Ban đầu ở đây quỷ làm chủ, người làm thuê. Sau nhờ có Phật, người đuổi được quỷ ra ngoài biển nhờ một giao ước với vai trò của cây nêu. Hai bên giao ước với nhau rằng, người sẽ bỏ ra tất cả của cải tích cóp được, chỉ để mua miếng đất được phủ bóng chiếc áo cà sa của Phật trùm trên một ngọn tre. Nào ngờ phép Phật khiến chiếc bóng rộng lớn mãi, đẩy lùi lũ quỷ ra ngoài biển Đông, nên gọi là quỷ Đông. Lũ quỷ căm giận phản công, nhưng nhờ có Phật chỉ dạy, con người đã đánh lui được chúng. Cuối cùng quỷ chịu thua, lấy biển Đông làm nơi trú ngụ, chỉ xin Phật để chúng được vào thăm đất liền hai, ba ngày chỉ vào dịp năm mới để thăm phần mộ của tổ tiên. Từ đó, cứ Tết đến là người trồng cây nêu để nhắc nhở lũ quỷ về giao ước năm xưa, khiến chúng không được xâm phạm nơi con người ở.
Tràng pháo
Theo cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính thì: “Trong mấy hôm Tết, ngày nào cũng đốt pháo. Điển đốt pháo do ở ‘Kinh sở tuế thời kỳ’ có nói rằng: Sơn tiêu (ma núi) phạm vào người thì người sinh đau ốm, nó chỉ sợ tiếng pháo, hễ đốt pháo thì nó không dám đến.” Thực ra câu chuyện này được ghi sớm nhất ở sách “Thần Dị Kinh” của Đông Phương Sóc thời Hán.
Cuốn “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh cũng kể về tục đốt pháo sau Lễ trừ tịch, trong đêm Giao thừa. Còn theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng trong cuốn “Tập tục đời người”, lễ Trừ tịch là để trừ khử ma quỷ. Phan Kế Bính trong “Việt Nam phong tục” cũng viết đại ý rằng lễ Trừ tịch nguyên gốc là lễ trừ khử ma quỷ, với âm thanh của tiếng đánh trống từ một đội ngũ 120 đứa trẻ đi dọc đường – theo tích cũ của Trung Hoa ngày xưa.
Vậy thì nguyên ban đầu tiếng pháo Tết có ý nghĩa xua tà đuổi quỷ, pháo được đốt kể từ sau Lễ Trừ tịch đêm Giao thừa, cho đến hết ba ngày Tết.
Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh
Người Việt đều biết về sự tích bánh Chưng bánh Dày. Sau khi chiến thắng giặc Ân, Hùng Vương thứ 6 có ý định truyền ngôi, bởi vậy nhân ngày Xuân, vua mới họp các con lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.(1)
Các hoàng tử đua nhau tìm kỳ trân dị vật để về làm cỗ, riêng người con thứ 18 là Lang Liêu lòng hiếu có thừa, nhưng điều kiện lại thiếu, bởi vậy đêm ngày băn khoăn lo lắng.
Một đêm, Thần mới báo mộng cho Lang Liêu rằng: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.” (2)
Lang Liêu tuân theo lời Thần, làm ra bánh Chưng hình vuông, bánh Dày hình tròn dâng lên vua cha. Hùng Vương ăn xong khen ngon, hỏi ý nghĩa của bánh. Lang Liêu thuật lại lời Thần, Hùng Vương thấy ý nghĩa sâu sắc, đẹp lòng, bèn truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó nước ta có tục làm bánh Chưng bánh Dày trong dịp năm mới để dâng cúng Trời Đất tổ tiên.
Còn thịt mỡ, dưa hành là món ăn dân dã, là sản vật của nền kinh tế nông nghiệp. Thịt mỡ cũng được cho vào trong nhân bánh Chưng, bánh Dày. Thịt mỡ vốn béo ngậy, chóng ngấy, nhưng ăn chung với dưa hành muối chua chua, thì vừa ngon miệng, vừa dễ tiêu.
…
Ý nghĩa đích thực của Tết Nguyên đán
Như vậy, trong một câu đối 14 chữ đã hàm chứa ý nghĩa nguyên thủy của ngày Tết Nguyên đán. Câu đối này có đủ cả mùi vị, âm thanh, màu sắc, hình dáng… thỏa mãn cả 6 giác quan (lục căn) của con người.
Ví như mắt ta nhìn thấy màu trắng của thịt mỡ dưa hành; màu xanh của bánh chưng hình vuông, của cây nêu hình trụ; màu đỏ của đôi dải câu đối, của bánh pháo dài; miệng ta cảm nhận vị béo ngậy của thịt mỡ và nghĩ đến dưa hành chua, nước miếng lại ứa ra.
Tai ta nghe thấy tiếng tràng pháo nổ ran, mắt ta thấy ánh lửa sáng chói, mũi ta ngửi được khói pháo khét nồng, làm ấm cả không gian tê tái của mùa đông xứ Bắc. Và tâm trí ta như bay vụt về với những hồi ức trong thời hồng hoang viễn cổ của tộc Việt. Như vậy là thỏa mãn đủ cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh thuộc về thú ăn; cây nêu, tràng pháo, câu đối đỏ thuộc về thú chơi, bởi vì Tết Nguyên đán là một dịp ăn chơi xả hơi sau một năm làm việc vất vả, một nắng hai sương. Đây cũng là những thú ăn chơi đặc trưng nhất, làm nên hồn cốt của Tết Nguyên đán.
Người xưa có câu “xuân canh, thu thu”, mùa xuân là thời điểm gieo trồng, mùa thu thì thu hoạch. Tết Nguyên đán là vào cuối đông, lúc này mùa màng đã thu hoạch xong và con người đang đợi xuân sang để gieo trồng, vậy nên đây là lúc cần nghỉ ngơi, hưởng thụ, nhưng quan trọng nhất là tạ ơn Thần linh đã bảo hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi, và cầu mong một vụ mùa thành công trong năm kế tiếp.
Bởi vậy, bánh Chưng bánh Dày của Lang Liêu vượt xa ý nghĩa một món ăn thông thường. Thứ nhất, nó do Thần khải thị; Thứ hai, nó biểu tượng cho vũ trụ quan của người Việt thời thượng cổ với bánh Chưng hình vuông tượng Đất, và bánh Dày hình tròn tượng Trời (3); Thứ ba, với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, lá dong… nó tượng trưng cho sản vật nông nghiệp, cũng là thứ do Trời ban, Thần dạy, giống như vai trò của Thần Nông, Hậu Tắc trong văn hóa nông nghiệp; Thứ tư, nó tượng trưng cho đức hiếu thuận, tinh thần đùm bọc, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống thờ cúng tổ tiên… của người Việt, mà từ tổ tiên đi ngược về điểm đầu của nền văn minh thì chính là các Thần.
Tất cả những điều này biểu hiện quá rõ ràng về một nền Văn hóa Thần truyền. Thần sáng tạo ra con người, Thần dạy con người lễ nghi, nghề nghiệp và truyền dạy cả phương thức sinh hoạt.
Thần còn dạy con người cách chiến đấu và chiến thắng những lực lượng tà ác ma quỷ, như sự tích cây nêu gắn với Phật và nguồn gốc của câu đối đỏ gắn với hai vị Thần trừ tà: Thần Đồ và Uất Lũy.
Đại chiến Thần-Ma là một câu chuyện xuất hiện ở Việt lẫn Hoa vào thời thượng cổ. Như ở đất Việt còn có thêm câu chuyện cha con Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân hàng phục Mộc tinh; hoặc Lạc Long Quân hàng phục Hồ tinh, Ngư tinh. Ở Trung Hoa, trong cổ tịch “Thượng thư”, “Quốc ngữ” đều ghi chép cố sự Chuyên Húc “Tuyệt địa thiên thông” (Tạm dịch: Cắt đứt đường lên Trời). Đã từng có một thời kỳ tại viễn cổ mà nhân – Thần đồng tại, khi đó nhân gian câu thông với không gian cao tầng, Trời Đất nối với nhau, con người sống lẫn với các chính Thần và có cả các ác Thần. Lúc đó nhân gian thường xuất hiện tình huống Thần, Ma đại chiến. Như thủy Thần Cộng Công tới tranh ngôi vua với Chuyên Húc, thiếu chút nữa là hủy diệt nhân loại. Còn vào thời Hoàng Đế, Xi Vưu của bộ lạc Cửu Lê thường triệu Thần gió, Thần mưa tới hỗ trợ tác chiến, khiến nhân gian khốn đốn không yên, thiên hạ đại loạn, cuối cùng bị Hoàng Đế cũng với các lực lượng Thần Tiên ở cõi trên tiêu diệt. Mãi cho tới khi Chuyên Húc tuyệt địa thiên thông, cắt đứt đường lên xuống giữa Trời và Đất, điều ấy mới chấm dứt.
Sự xuất hiện của “cây nêu, tràng pháo, câu đối đỏ” chính là thể hiện rằng người Việt được Thần Phật bảo hộ, được tổ tiên lập quốc và giữ nước. Thành ra ý nghĩa nguyên thủy của Tết Nguyên đán chính là tế lễ tạ ơn Thần Phật, tưởng nhớ và tôn kính tổ tiên, đó là phần nội hàm tinh tế nhất của “lễ”; Còn phần vật chất, trên bề mặt, lớp vỏ bên ngoài là một dịp “hội” để con người nghỉ ngơi, vui chơi, hưởng thụ thành quả lao động sau một năm vất vả.
Tôn truyền thống, trọng nguồn gốc, treo câu đối Tết – Kính Thần Phật, phục đạo đức, đón bình an Xuân
Ngôn ngữ của người xưa hàm súc, nói ít hiểu nhiều, gắn với nhiều điển cố, điển tích. Mỗi câu thơ, câu đối có thể động tới cả một pho sử, pho sách, ấy là kết tinh trí tuệ của cổ nhân. Thấu hiểu ý nghĩa văn hóa của câu đối chính là sự đồng cảm, tâm ý tương giao giữa xưa và nay vậy. Hàng năm, mỗi dịp Xuân về, cũng có nhiều người đi xin chữ nơi đình đài quán các xưa, như Văn Miếu Quốc Tử Giám chẳng hạn. Nhưng xin chữ chi bằng làm hẳn đôi câu đối đỏ, vừa độc đáo có văn khí, chiêu phúc lạc lại đẹp cửa nhà. Có câu đối để treo đã vui mắt, nhưng hiểu sâu xa ý tứ của câu đối, để cùng tao nhân mặc khách ngày xuân đối ẩm, ngắm hoa, bình câu đối Tết đỏ nhà ấm cửa… mà nhớ về những vàng son hào hùng một thuở của dân tộc, thật chẳng thú lắm sao!
Nguyên Phong
Chú thích:
(1), (2): theo “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi.
(3): Đạo Trời là tròn là động, thuộc dương; Đạo Đất là vuông là tĩnh, thuộc âm. Vuông tròn không phải hình dáng mà là chỉ thuộc tính của Thiên Đạo và Địa Đạo.
NTD Việt Nam