Vu Công đi tuần phía nam thành, phá vụ án oan ở chùa Tĩnh Quả, từ đó người ta tôn xưng ông là Vu Thanh Thiên, Vu Thành Hoàng. (Hạ Quỳnh Phần/Epoch Times)
Giết dâm tăng cứu được thiếu phụ
Vu Công tuần du qua Nam thành, gặp một cơn gió xoáy kỳ dị thổi cuốn những chiếc lá Đông Thanh, bèn hỏi tả hữu rằng: ‘Lá này rất lớn, cây đó chắc cũng to. Ở đâu có cây to như vậy?’
Ông vừa dứt lời thì một sai nha thưa: ‘Tây Nam thành có ngôi chùa Tĩnh Quả, trước chùa có một gốc Đông Thanh rất lớn, lá này là từ cây đó.’
Ông nghe xong hỏi chùa đó cách bao xa. Sai nha bẩm: ‘Cách đây khoảng hai dặm đường.’
Vu Công lệnh sai dịch dọn đường, đi thẳng tới chùa. Quả nhiên thấy một gốc cây cao lớn, lấy chiếc lá ra so thì giống nhau. Ông bảo: ‘Nơi này chắc có oan sai!’
Có hai tăng nhân ra nghênh đón. Ông nhìn kỹ hai người, đều có tướng ác, liền giả vờ bảo: ‘Hôm trước có người báo ta rằng hai ngươi mưu hại người, chôn dưới gốc cây này.’
Hai tăng nghe xong, mặt mày xám ngoét, tuy cố chống đỡ nhưng lời nói ấp úng quanh co. Ông thấy họ như vậy, hiềm nỗi không bằng chứng, khó bắt họ được, bèn lệnh cho người đào quanh gốc cây. Đào được gần hai thước, quả nhiên thấy một thi thể, yết hầu chảy máu, cổ bị siết gãy, thân thể cứng đờ. Thấy vậy ông nói: ‘Oan thay! oan thay! nóng nực thế này mà xác không thối nát, không thể không oan!’
Ông nổi giận quát bắt hai tăng ra tra khảo. Hai người chưa đợi đánh đòn đã vội khai ra: ‘Nửa tháng trước, vào một buổi tối có một thanh niên trẻ, dắt theo một cô nương đi qua đây. Có ba, bốn tăng nhân đang hóng mát, thấy gái đẹp nên sinh tà tâm, dùng dây thừng thắt cổ người trai, rồi chôn dưới gốc cây.’
Ông nổi giận, lệnh sai nha tiến vào lục soát, đồng thời cho bắt hai tăng nhân, một kẻ trèo tường định trốn, nhưng cũng bị tóm lại. Tìm kiếm một hồi, quả nhiên tìm được hai phụ nữ, một vị chính là người có chồng bị giết chôn dưới gốc cây. Hỏi lai lịch người kia, người phụ nữ khóc nói: ‘Tôi do chồng mới chết bảy ngày, mang theo con trai chín tuổi tới chùa này cúng cơm. Bọn tăng thấy tôi cô độc, xúm lại bắt tôi vào chùa. Ba ngày trước, chúng nói là con trai tôi đã bị hổ tha đi, không biết thực hư ra sao, xin đại nhân giúp đỡ.’
Vu Công nổi giận cho bắt sư trụ trì, khép vào tội chết, ba tăng nhân kia thì tra hỏi tội sau đó sung quân đày đi xa, còn tăng nhân nhỏ tuổi thì thả cho về. Cậu bé chín tuổi kia bị đem bán, ông bỏ tiền túi ra chuộc về, giao tận tay cho người thân. Ông sai người mang thi thể chôn cất chu đáo. Từ đó dân chúng tôn xưng ông là Vu Thanh Thiên, Vu Thành Hoàng.
Thương cụ bà can gián hiền vương
Vu Công xử án như Thần, đến đàn bà con gái cũng truyền tụng công đức của ông. Một ngày nọ ông đang trên công đường, thấy một bà cụ đi thẳng vào trong, khóc lóc bi thương. Ông hỏi: ‘Làm sao bà cụ lại khóc?’
Bà lão kể lể: ‘Con trai tôi bị giam cầm trong ngục, đành phải bán đứa cháu trai mới lên mười cho người ta, xin ngài cứu con tôi, để nó nuôi mẹ già con nhỏ. Cầm ba lạng bạc bán cháu, đi vội vào thành để đưa tiền cứu con, số bạc đó tôi để cùng trong giỏ đựng cơm, vừa đưa cơm cho con vừa gửi tiền cho con sử dụng, đi được nửa đường tôi bỗng đau quặn bụng, đành tìm nhà xí ven đường, không dám để giỏ cơm bên cạnh sợ bẩn, nên treo lên xà nhà.
Trong lúc vội vã tôi bỏ quên giỏ cơm. Đi quá nửa đường mới nhớ ra, vội quay lại tìm, nhưng đã mất. Bây giờ thì cháu không còn, tiền cũng mất, cũng không cứu được con trai, tôi chỉ còn nước chết. Nghe danh ngài là Vu Thanh Thiên, là Thành Hoàng sống, cầu xin ngài điều tra giúp tôi ’.
Nói xong khóc ròng, bà lão rập đầu đến chảy cả máu, sai dịch hai bên quát dừng mới thôi.
Vu Công bảo: ‘Bà là phụ nữ, chẳng biết tính danh tung tích, không người chứng kiến. Bên ngoài nhà xí ấy cũng chẳng có lân cư. Đem sự việc không đầu mối ấy tới đây làm loạn à!’
Bà lão ra sức rập đầu kêu: ‘Ôi ông ơi! Bao Thanh Thiên từng giải quyết 72 sự vụ không manh mối, chẳng lẽ ông lại không làm được vụ này sao?’
Vu Công thấy bà lão nói vậy, cũng thấy có hứng khởi, bèn bảo: ‘Bà cứ đứng dậy đi, đợi ta tìm về cho bà’.
Bà lão cả mừng vội đứng dậy bái lạy, nói: ‘Ông thực là ngài Thanh Thiên, tìm lại cho tôi.’
Vu Công chuyển sang làm việc khác, bà lão thấy ông làm việc khác, lúc lâu sau không thấy tìm kiếm gì, thế là bà lại quỳ xuống khóc lóc. Sai dịch hai bên quát cũng không dừng. Ông ra lệnh cũng không thể đuổi được bà ra, suy nghĩ một hồi, trong tâm có chuyển hướng.
Vu Công định sai người về huyện lấy ba lạng bạc trả cho bà cụ, bỗng thấy hai con chim hỷ thước bay bên thân bà lão, bay tới bàn của ông rồi bay đi.
Ông lại cúi xuống làm việc khác, bà cụ lại quỳ xuống khóc to, sai dịch cũng không quát dừng được. Đúng vào lúc đang ồn ào thì thấy hai con hỷ thước bay đến bên bàn Vu Công kêu liên hồi.
Vu Công giật mình thầm nghĩ: ‘Nơi công đường nhiều người thế này, thường ngày đâu có chim chóc bay đến, nay lại có hai con hỷ thước bay tới, thật kỳ lạ.’ bèn hỏi tả hữu: ‘Ở vùng này có ai tên là Hỷ Nhị không?’
Mấy sai dịch đồng thanh trả lời: ‘Có người tên là Hỷ Nhị’
Ông hỏi tiếp: ‘Hỷ Nhị làm nghề gì?’
Sai nha đáp: ‘Làm nghề bán bánh buổi sáng.’
Bà lão nghe thấy vậy nói ngay: ‘Thưa ông, khi tôi quay ra thì thấy người bán bánh.’
Vu Công nói: ‘Vậy à.’, rồi ông dặn dò hai sai dịch: ‘Hãy thu xếp tìm Hỷ Nhị về đây, bảo hắn gánh cả bánh đến, chớ làm hắn kinh sợ, ta đợi ở đây.’
Hai người vâng dạ nhận lệnh, đi nhanh tới cửa Tây, gặp Hỷ Nhị rồi nói: ‘Ngài Vu cho mời ngươi.’
Hỷ Nhị giật mình kinh sợ, hoảng loạn nói: ‘Công sai ơi, tôi chỉ làm nghề kiếm sống, không làm gì sai, Vu Công gọi tôi làm gì?’
Hai công sai trả lời: ‘Ngươi đến thì biết, chỉ là muốn mua bánh, ngươi cứ gánh tới.’
Hỷ Nhị nghe vậy, lo lắng nói: ‘Ngài Vu kẻ hầu người hạ đâu thiếu gì cái ăn mà phải mua bánh của tôi? Công sai à, tôi vốn không phải là Hỷ Nhị, tôi nguyên họ Kê, đứng thứ hai trong nhà, tiếng địa phương gọi là Hỷ Nhị. Tôi nghĩ không phải người ông cần đâu.’
Sai nha nóng ruột gắt: ‘Vu Công bảo gánh cả gánh bánh đến, không phải ngươi thì là ai?’
Sai nha vừa nói vừa lôi gánh hàng đi, ồn ào thu hút nhiều người nhìn.
Vu Công ngồi đợi ở công đường, hai sai nha đưa Hỷ Nhị vào gặp, Hỷ Nhị kinh sợ không cất nổi lời.
Vu Công hỏi: ‘Hỷ Nhị, ngươi không phạm tội. Ngươi có nhặt được gì vào lúc sáng sớm không?’
Kê Nhị nghe vậy cũng yên lòng, đáp: ‘Thưa ông, tiểu nhân sáng sớm vào nhà xí, nhặt được một giỏ cơm chứ không có gì khác.’
Vu Công bảo: ‘Chính là giỏ cơm ấy, ngươi đã động vào chưa?’
Kê Nhị trả lời: ‘Tiểu nhân chưa làm gì cả.’
Vu Công nói: ‘Hãy mang ra đây.’
Bà cụ vừa nhìn thấy giỏ cơm vui mừng reo lên: ‘Đúng là nó đấy.’
Vu Công lệnh cho mở ra, quả nhiên thấy ba lạng bạc trong giỏ.
Vu Công trả lại bạc cho bà, nhân tiện hỏi: ‘Con bà sao bị cầm tù, cần tiền sử dụng?’
Bà lão đáp: ‘Do thiếu nợ Vương phủ, nên bị huyện quan truy đòi.’
Vu Công nghe vậy, chau mày suy nghĩ, lấy tiền lương của mình ra ba lạng đưa cho bà cụ, sai người đi chuộc lại cháu cho bà. Mặt khác viết lệnh bài cho nha môn nơi ấy thả con trai bà ra. Lại dùng lời vỗ về Kê Nhị, cho thêm 5 tiền, Kê Nhị khấu đầu bái tạ. Dân chúng hết lời khen tụng uy đức Vu Công.
Một ngày khác, Vu Công đi ra ngoài, trên đường gặp một đám tiểu dân, bị trói đứng bên đường. Vu Công bảo phu kiệu dừng lại, hỏi: ‘Những người này có chuyện gì vậy?’
Cả bọn quỳ rạp xuống thưa: ‘Là do Vương phủ đòi tiền thuê nhà ạ.’
Vu Công bảo: ‘Chỉ có triều đình lệnh cho các quan thu tô lương thực, đâu có lý Vương phủ đòi tiền thuê nhà.’
Vu Công do mấy ngày trước đã biết việc con trai bà cụ thiếu nợ Vương phủ mà bị giam vào ngục. Nay lại thấy nhiều người chịu cảnh khổ, trong lòng xót thương. Ông hỏi lại: ‘Các ngươi thuê nhà trong phủ, sao không trả tiền thuê mà để ra nông nỗi này.’
Họ khóc lóc kể ra: ‘Tiểu nhân đâu dám trả thiếu tiền thuê trọ, bởi khi hạn lúc lụt liên miên, khi hạn hán thì quan phủ không tu sửa kênh mương, nên khi mưa lớn nhà nhà đều lụt, khó được an thân. Tiền thuê nếu thiếu vài xu, thì cũng đến bắt gà chộp vịt lấy cho đủ số. Thiếu tiền nhà từ một đến hai tháng thì phải dọn ra khỏi nhà, thiếu tiền ba tháng thì bị truy cứu, thực là khổ sở. Xin ngài đoái thương, cứu giúp phận cỏ rác chúng con.’
Vu Công nghe xong, lòng vô cùng thương xót, cho gọi cả đám vào trong sân, các quan đành phải tuân theo. Vu Công lấy bút viết:
‘Được mùa tha thứ tội nhân, đói kém bớt đi lao dịch. Lúc đẹp trời thì tận thu gà lợn, khi mưa xuống thì lụt đầy nhà. Tuy có thiếu một hai tháng tiền nhà, sao phải ra hẹn 3 đến 5 ngày để trách cứ. Bất kể pháp luật quốc gia nào, thì đều cần thay đổi theo hướng làm lợi cho dân. Nay tôn Vương nếu muốn lấy tiền phòng, hãy đợi đến năm được mùa Vu Khiêm trả đủ.’
Vu Khiêm là tên của Vu Công. Bút phê xong, lập tức cho thả hết người về, yên tâm sinh sống; nếu tuổi còn nhỏ, thì cho nợ tới khi trưởng thành. Chúng nhân khấu đầu cảm tạ rồi đi.
Vu Công đích thân vào phủ gặp Chu Vương, kể lể nỗi khổ dân nghèo khi mất mùa. Chu Vương nhất nhất nghe theo, từ đó về sau trong phủ cũng làm theo, miễn trừ toàn bộ tiền thuê nhà, việc này cho thấy đại đức của Chu Vương, cũng thấy được trí huệ cùng lòng thương dân của Vu Công. Từ đó Chu Vương thường mời Vu Công dự yến tiệc, cùng xem hoa làm thơ tác phú. Vu Công mẫn tiệp phóng bút làm thơ tả trăm hoa, mỗi loài hoa là một bài thơ, văn từ hoa lệ, người nghe yêu thích. Được Chu Vương cực kỳ coi trọng, thơ của ông tới nay vẫn được trân quý. Khi yến tiệc say sưa khoáng đạt, Vương cũng làm thơ tác phú, mỗi lần tương ngộ đều là sự việc long trọng một thời.
(Theo “Vu Thiếu Bảo tụy trung truyện” của Tôn Cao Lượng, đời Minh)
Tôn Cao Lượng – Epoch Times
Thái Bình biên dịch
NTD Việt Nam