“Hòa vi quý”, “Trung hòa” là gì? Nội hàm của “Hòa” trong văn hóa truyền thống Á Đông. (Tranh Epoch Times)
Trong văn hóa truyền thống Á Đông, “Hòa” luôn là đạo đức truyền thống được tôn sùng, là nguyên tắc cơ bản bao trùm các tầng diện và các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và nội tâm, cho đến quy định bản chất của việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là tinh hoa của văn hóa truyền thống và là một loại tinh thần dân tộc cao thượng.
“Hòa vi quý”
“Hòa” biểu đạt ra quan niệm tư tưởng hòa mục, hòa ái, hòa bình, và bình hòa. Tư tưởng “hòa vi quý” và “quý hòa” là định hướng giá trị trung tâm nhất của văn hóa truyền thống Á Đông. “Thiên – Nhân hợp nhất”, tức là “hòa” của Thiên (Trời) và Nhân (con người), có nghĩa là: con người cần có lòng cảm ân, kính úy Thiên Địa, tuân theo quy luật vũ trụ, tôn trọng và bảo vệ tự nhiên, cần biết rõ Đạo “hòa thực sinh vật” (hài hòa thì vạn vật sinh trưởng phát triển).
Mỗi cá nhân cần tu tâm dưỡng tính, cần coi trọng công phu “tâm bình khí hòa”. Giao tiếp với người, cần giữ gìn nguyên tắc “hòa nhi bất đồng” (hòa thuận mà không câu kết), “hòa nhi bất lưu” (hòa đồng mà không bị cuốn theo trào lưu). Trị sửa quốc gia, cần hiểu rõ cái lý “chính thông nhân hòa” (chính lệnh thông suốt, người dân hòa hợp), để đạt đến sự hài hòa và thống nhất giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người.
Khi luận về “Hòa”, Khổng Tử đề ra lấy “thân nhân thiện nhân” (thân với người nhân đức, thiện với người nhân đức) làm nền tảng.
Sách “Đại học” từng đề ra: “Tự Thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”, nghĩa là: Từ Thiên tử đến thứ dân, hết thảy đều lấy việc tu thân làm gốc.
Điều này có nghĩa là: mọi người đều phải coi trọng tu thân dưỡng tính, “cư xử cung, chấp sự kính, dữ nhân trung” (cư xử, làm việc cần cung kính, trung thành với người), “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì chớ làm cho người) v.v…
Khổng Tử cho rằng, một người, chỉ sau khi có đạo đức thì mới trở thành người quân tử, khác biệt với tiểu nhân, thì mới có thể tiến vào cảnh giới “hòa nhi bất đồng, chu nhi bất tí” (hòa hợp tất cả mà không bè phái câu kết).
Luận Ngữ có viết: “Lễ chi dụng, hòa vi quý”, nghĩa là: Tác dụng của lễ, quan trọng nhất là khiến cho mọi người hài hòa.
Điều này có nghĩa là, tiền đề của “hòa vi quý” là cần phải “dùng lễ để tiết chế”, cũng chính là cần phải làm được chế lễ, thủ lễ. Chỉ có: “khắc kỷ phục lễ” (khắc chế bản thân, phục hồi lễ nghĩa) thì mới có thể “thiên hạ quy hòa” (thiên hạ trở về với sự hài hòa).
Trong lịch sử, lễ làm quy phạm xã hội và an bài chế độ, nó có 2 đặc tính:
- Thứ nhất là “khác biệt”, “lễ chết vì không khác biệt, không khác biệt không thể gọi là lễ”, dùng nó để tránh do không có khác biệt mà tạo thành xung đột lợi ích và xã hội không có trật tự.
- Thứ 2 là “hòa”, “lễ” thì “hòa” là quan trọng nhất, là thể hiện của “hòa”, mấu chốt là phải xem nó có thể hiện ra nguyên tắc đạo đức và chính nghĩa hay không.
Ví như vua Thuấn thời cổ đại, thiện với người khác, đức lợi cho chúng sinh. Thân người hiền, xa kẻ nịnh. Ông mở rộng đường cho mọi người phát ngôn, lắng nghe tiếng nói của dân chúng, lập ra tấm gỗ phỉ báng (ngày nay diễn biến thành hoa biểu – cột nghi lễ trước cung điện, lăng mộ). Ông đã từng cày ruộng ở chân núi Lịch Sơn, nhường ruộng đất màu mỡ cho người khác. Khi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, ông nhường ngư trường tốt cho người khác. Ông dẫn động các thợ thủ công làm gốm ở Hà Tân tỉ mỉ chế tạo, không làm thô làm ẩu.
Phương thức mà ông thúc đẩy hòa vi quý là lấy đức cảm hóa các bộ tộc thiểu số Tam Miêu, khiến họ từ bỏ điều ác theo điều thiện. Chính vì ông khiêm cung lễ nhượng, thành tín nhân đức, bách tích đều được cảm hóa, mọi người đều tự giác tuân thủ đạo đức xã hội, khiến cho “nơi ông cư trú, một năm thành quần tụ, 2 năm thành ấp, 3 năm thành đô thị”, đã khai sáng ra nền thái bình thịnh thế, chính trị trong sạch, tươi sáng, ngàn bang hòa hợp.
“Trí trung hòa” (đạt đến Trung hòa)
Người xưa có từ “Trung hòa”. Sách Trung Dung có viết: “Trung là cái gốc lớn của thiên hạ. Hòa là Đạo của thiên hạ. Đạt đến trung hòa thì thiên hạ ai ở vị trí người ấy, vạn vật được dưỡng dục”.
“Thành ý chính tâm”, “tu tề bình trị” của Nho gia, là theo con đường từ trong ra đến ngoài, từ mình cho đến người, từ người cho đến vật, từ gần đến xa, nhấn mạnh là do cá nhân tu bản thân, cuối cùng đạt đến thiên hạ thái bình.
Nếu ai ai cũng có thể không ngừng đề cao tiêu chuẩn đạo đức và hoàn thiện tu dưỡng nhân cách, làm được “văn chất bân bân” (văn minh và chất phác như nhau đủ đầy), “làm lợi mà không lãng phí, mệt nhọc mà không oán hận, an lành mà không kiêu, uy nghi mà không hung dữ”, cử chỉ có tiết chế, hành vi có chừng mực, tiến thoái đều có quy củ phép tắc, thế thì toàn bộ xã hội ắt sẽ xuất hiện cục diện hài hòa, an hòa.
“Trí trung hòa” coi trọng mức độ thích hợp, xác đáng, cân bằng và hòa hợp. Chu Dịch có viết “Bảo hợp đại hòa, nãi lợi trinh”, là nói rằng, cần âm dương hợp đức, thì mới tứ thời điều hòa, vạn vật sinh trưởng, thịnh trị yên ổn lâu dài.
Nhà triết học Bắc Tống Trương Tái nói: “thù tất hòa nhi giải” (Thù hận thì ắt phải dùng hòa hợp để hóa giải – “Chính mông – Thái hòa thiên”), là nói rằng, giữa người với người cần nỗ lực làm được khiến xung đột được hóa giải, đấu tranh được giải trừ, chiến tranh được chấm dứt, biểu đạt nguyện vọng hòa bình.
Ông viết trong “Tây minh” rằng: “Càn xưng phụ, khôn xưng mẫu. Dư tư miễu yên, nãi hỗn nhiên trung ngoại. Cố thiên địa chi tái, ngô kỳ thể; thiên địa chi soái, ngô kỳ tính”.
Nghĩa là: Trời là cha, Đất là mẹ. Ta sinh ra nhỏ bé, không biết gì ở trong đó. Do đó ở giữa trời đất, ta là cùng một thể; đặc tính của Trời Đất, ta cùng một tính.
Đại ý là nói: Con người do Trời Đất sinh ra, nhỏ bé, vô tri ở trong trời đất. Những chất khí đầy trong trời đất cấu thành thân thể con người. Sự chủ đạo ở giữa trời đất chính là thiên tính của con người. Hài hòa là một loại quy luật, là quy luật mà vạn vật vốn có. Có giữ được hay không liên quan đến sự trưởng thành và biến dị của cá nhân. Hài hòa là một loại cảnh giới, giữa những người khác nhau, giữa những vật khác nhau, sự phối hợp lẫn nhau, chế ước lẫn nhau, cân bằng lẫn nhau giữa người và tự nhiên, từ đó mới có thể đạt được hài hòa thống nhất, tự nhiên vạn vật đều lấy hài hòa để sinh sống, là cái đẹp.
Hài hòa được kiến lập trên nền tảng của đạo nghĩa, là trường cửu và vĩnh hằng, triển hiện ra tinh thần bao dung và tấm lòng rộng lớn, khiêm dung hàm chứa, biển nạp trăm sông.
“Hòa nhi bất đồng” (Hòa hợp mà không đồng nhất)
“Hòa” mà người xưa nói đến, là “hòa” trong sự khác biệt, không có khác biệt thì không có “hòa”. Khổng Tử nói: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” (Người quân tử hài hòa mà không đồng nhất, kẻ tiểu nhân đồng nhất mà không hài hòa), coi hòa đồng hay không là một tiêu chuẩn phân biệt quân tử và tiểu nhân.
“Hòa nhi bất đồng” (hài hòa mà không đồng nhất) truy cầu sự hài hòa thống nhất nội tại, mà không phải là sự tương đồng và nhất trí ở biểu hiện bề ngoài. Tinh thần của “hòa” là với tiền đề là thừa nhận tính khác biệt, tính đa dạng của sự vật, là sự giữ gìn tính đa dạng. Các sự vật hoặc nhân tố khác nhau đều cùng tồn tại và giao hòa lẫn nhau, thành tựu và trợ giúp lẫn nhau, tác động và bổ sung lẫn nhau, khiến vạn vật sinh sôi nảy nở không ngừng.
Còn “đồng nhi bất hòa” (đồng nhất mà không hài hòa) thì không như vậy, nó chỉ bài xích những khác biệt, tiêu diệt sự khác biệt. Loại khuynh hướng có tính đơn nhất này, cuối cùng tất sẽ dẫn đến sự vật phát triển đình trệ, và dẫn đến tiêu vong.
Ví như Tề Cảnh Công thời Xuân Thu, nghe theo những lời xiểm nịnh của Lương Khâu Cứ, nói với quần thần rằng, ông và Lương Khâu Cứ là hài hòa nhất. Yến Tử nói:
“Thần không cho là như vậy. Lương Khâu Cứ vô cớ khen ngợi chúa công, giữa hai người chỉ là “đồng” mà không phải là “hòa”. Hài hòa giống như nấu canh, dùng các loại gia vị, nguyên liệu, trải qua nguấy trộn khiến vị thích hợp, nhạt thì tăng gia vị, đậm thì thêm nước, như thế mới là món ngon có thể ăn được. Đạo quân thần cũng cần như thế. Quân chủ chính xác, thần tử cần dốc sức duy hộ. Quân chủ không đúng, thì thần tử cũng cần phải chỉ ra, để sửa chữa lỗi lầm. Như thế, quốc gia mới có thể yên định, chính sự mới có thể không có sai lầm.
Lương Khâu Cứ vì để chúa công vui lòng, nên không hỏi tốt xấu, luôn luôn nhất trí với chúa công, đó là ‘tương đồng’, sao có thể là ‘hài hòa’ được? Như thế này, đối với chúa công, đối với quốc gia có ích lợi gì? Nghe lời của ông ta, giống như đổ thêm nước vào nước, chẳng ra mùi vị gì cả. Lại giống như gảy đàn, chỉ gảy một âm thanh, thì chẳng có ai nghe”.
Yến Tử từ góc độ chính trị quốc gia, đã luận chứng sự khác biệt bản chất của “hòa” và “đồng”. Quân thần cần đặt lợi ích quốc gia và nhân dân lên vị trí đứng đầu, trên cơ sở ai nấy phát biểu đầy đủ ý kiến của mình, đạt đến “hòa”, thì mới là thái độ và cảnh giới lý tưởng mà nền chính trị quốc gia cần phải có.
Quan niệm “hòa nhi bất đồng” là: Quân tử giao kết với nhau, có lòng độ lượng bao dung người khác, và có tiết tháo kiên trì ý kiến bản thân, bổ khuyết lẫn nhau, không phụ họa theo quyền thế, không câu kết cùng phe với thế lực hắc ám, do đó hài hòa mà không đồng nhất.
Tiểu nhân kết giao, ắt vì cùng nhau mưu lợi, dựa vào cường quyền, ai nấy đều có lòng dạ lợi mình hại người, có đồng nhất mà không hài hòa, áp chết các ý kiến bất đồng, bài xích người khác biệt.
Khổng Tử gọi những người việc gì cùng đồng nhất nhất trí, không coi trọng nguyên tắc đạo đức là “hương nguyện”. Ông phê bình rằng: “Hương nguyện là kẻ giặc của đạo đức”, chỉ ra tiểu nhân, ngụy quân tử nhất định sẽ bị mọi người thóa mạ. Ông nói, phán đoán đức hạnh của một người, “không được căn cứ theo sự yêu thích hay ghét bỏ của số đông, mà cần dùng tiêu chuẩn đạo đức thiện ác làm căn cứ”. Vấn đề nguyên tắc đại thị đại phi, thì bất kỳ thời gian nào, lúc nào cũng không được thỏa hiệp.
Hàng trăm hàng nghìn năm nay, “hòa vi quý”, “dữ nhân vi thiện”, “nhân giả ái nhân”… thẩm thấu vào tư tưởng của các gia phái trong lịch sử, trở thành nguyên tắc đạo đức và văn minh tinh thần mà mọi người phổ biến tiếp nhận và công nhận. Nhưng ngày nay, những chế độ độc tài lại bịt kín đường ngôn luận, lời dối trá lừa bị mọi người, cưỡng ép nhân dân tẩy não, đề xướng “triết học đấu tranh”, khiến quan hệ và sự hài hòa giữa người với người bị bóp méo thành “trừng trị người” và đấu tranh, phá hoại tín ngưỡng, đạo đức và văn hóa truyền thống, phá hoại sự kính úy và gìn giữ của mọi người đối với trời, đất, tự nhiên, bức hại chính tín của mọi người, hành động ngược với trào lưu lịch sử, cuồng vọng đưa mọi người vào vực sâu tội ác.
Thế nên chỉ có phục hưng văn hóa Thần truyền vĩ đại, kính Thiên ý, tôn trọng nhân tính, và kiến lập sự quan tâm yêu thương phổ biến giữa người với người, thì mới có thể có được tương lai tươi sáng, thì mới có thể chung sống hài hòa với thiên địa tự nhiên.
Trí Chân – Minh Huệ
Trung Hòa biên tập từ:
Tinh thần của “Hòa” trong văn hóa truyền thống
NTD Việt Nam