[ChanhKien.org]
2. Thông tỏ trí huệ vũ trụ
Chữ 智 (trí): 日 (nhật: mặt trời) biểu tượng cho Thái cực, cho dương và chính tính; 口 biểu tượng cho vũ trụ, 二 biểu tượng cho âm dương, thiên địa; nét 丿 và nét ㇏ hợp với nhau thành chữ 人 (nhân), nét 丿 (phảy) biểu tượng cho sự thay đổi. Vì vậy chữ 智 biểu tượng cho việc lấy chính tính làm cơ điểm để thông triệt hết thảy sự biến đổi của âm dương trong vũ trụ và Thiên Địa Nhân, đó chính là đã minh tỏ được quá trình lịch sử vũ trụ được sinh ra cho đến thông tỏ được hết thảy của vạn sự vạn vật trong đó. Đó chính là chánh kiến đối với vũ trụ thế giới, loại đại “trí” này là không thể nghĩ bàn đến đối với người thường, cũng là điều mà sự thông minh con người không thể sánh được.
Chữ 慧 (huệ): như đã nói trên, 彐 có nội hàm tảo trừ, quét sạch trong vũ trụ. Nét 丨 (cổn: nét sổ thẳng) của chữ 丰 (phong: phong phú) là xuyên suốt tam tài Thiên Địa Nhân, là tượng thông thiên thấu địa, hai chữ 丰 ở hai bên trái phải là biểu tượng cho hai phương diện âm dương. Vì thế chữ 慧 biểu tượng cho việc người ta tẩy sạch bụi trần trong tâm mình, không còn bị che phủ bởi những quan niệm thế tục thì mới có thể sinh ra Huệ được, mới có thể từ hai mặt âm dương mà có được những kiến giải chính xác với hết thảy của Thiên Địa Nhân trong vũ trụ. Đây là “Đại Huệ” minh huệ bất hoặc của thế giới nội tại. Vì thế đại trí đại huệ mà chúng ta nói chính là có nội hàm của tầng thứ cao thâm hơn.
Bộ 目 (mục): (tham khảo Chính kiến và tà kiến), bộ 目 biểu tượng cho nhìn nhận trong cảnh giới của một loại thấu triệt không có chấp trước đối với các tầng thứ trong vũ trụ, nhìn nhận từ tầng thứ hướng dọc của vũ trụ, là với một loại thần thông và năng lực siêu thường có liên quan với thiên mục của con người.
Chữ 看 (khán: nhìn): Nhìn như thế nào? Nét phảy ngang biểu tượng cho Thiên cách có biến đổi, nói cách khác sự biến đổi này là nhìn từ Thiên thượng xuống dưới, nhìn từ Thiên tượng xuống dưới, bởi vì Thiên tượng là căn nguyên đưa đến những biến động của địa tượng và thế tượng, nên chỉ có thể từ không gian cao tầng mà nhìn xuống thì mới có thể nhìn thấy chân tướng;
Vậy nhìn cái gì? Nét phẩy dài xuyên suốt từ nhân cách đến địa cách biểu tượng cho việc cần nhìn vào sự thay đổi đối ứng của địa tượng và thế tượng với Thiên tượng. Đồng thời, nét phảy dài là Thiên tượng của dương ở vị trí 4 đang bắt đầu đi xuống, chính là lúc âm dương trong vũ trụ đang bắt đầu có sự biến đổi lớn, vì thế việc nhìn chuẩn xác cơ hội này là rất cần thiết, bởi vì cần chuẩn bị tốt việc cứu độ vào thời mạt thế, sự việc quan hệ trọng đại;
Ai đang nhìn? Bởi vì sự việc này liên quan đến mỗi chúng sinh trong vũ trụ, nên trong phần đầu của chữcó tam tài “三”, biểu tượng cho các tầng Thiên Địa Nhân Thần trong vũ trụ đều đang nhìn. Những thứ nhìn thấy có thể đều là thiên cơ, đương nhiên cần phải dùng thiên mục để nhìn rõ từ trên xuống những diễn hóa trong các tầng thứ, trong vũ trụ thì mới được.
Chữ 視 (thị: nhìn), giản thể là 视. 礻 tức là 示 (thị: nêu lên, bày tỏ) biểu tượng rằng 二 (nhị) của âm dương trong thiên địa là 小 (tiểu: nhỏ), nói cách khác, Thái cực 一 (nhất) càng lớn hơn một chút; chữ 儿 (nhi), bên trái là nét 丿 (phảy) bên phải là nét 乚 (móc), là tượng của thuận thì sinh, nghịch thì vong. Vì vậy chữ 視 là biểu minh cho con người rằng cần coi Thái cực ban đầu là lớn, bởi vì tu luyện chính là cần phản bổn quy chân, xem xét sự biến đổi âm dương trong tiểu Thiên địa mà không chấp trước vào hết thảy mọi thứ trong đó, minh bạch đạo lý “thuận Thiên mà sinh, nghịch Thiên mà vong”. Đây là có ý triển hiện, thông qua diễn hóa mà thị hiện cho con người, khiến con người nhìn rõ ràng minh bạch, những hiện tượng siêu thường như thế cũng là cần dùng thiên mục để nhìn.
Chữ 說 (thuyết: nói), giản thể là 说. Nói cái gì? Chữ 言 (ngôn) từ trên xuống dưới là nét chấm, 3 nét ngang và chữ 口 (khẩu), đó chính là Thiên Địa Nhân Thần và vũ trụ đều có đủ rồi, đây là các chủ đề chính cần nói, cũng là vấn đề nên nói, chữ 口 ở dưới biểu tượng cho vũ trụ là không, tất cả đều nói là không (空), nhưng không phải là tất cả đều không tồn tại, không phải là ý này, mà là ý rằng chớ nên khiến cho con người sinh ra những chấp trước không bỏ được, ở đây không (空) là nói rõ, nhìn rõ. 八 (bát: số 8) ở thiên cách biểu tượng cho dương âm tách rời là Thiên tượng của mạt kiếp, 口 ở nhân cách biểu tượng cho vũ trụ, 儿 (nhi) ở địa cách phía dưới 儿 biểu tượng cho thuận thì sinh nghịch thì vong. Vì vậy chữ 說 biểu tượng cho trong vũ trụ khi thiên tượng xuất hiện sự tách rời của âm dương tức là thiên tượng của mạt kiếp của giải thể đã đến, cần nói cho con người không nên chấp trước vào bất kể sự vật gì của Thiên Địa Nhân Thần trong vũ trụ, thuận Thiên mà hành đi trên con đường chính thì mới là con đường sống, còn nghịch Thiên mà hành thì sẽ bị lịch sử vũ trụ đào thải, giảng thanh chân tướng mới là chủ đề cần phải nói. Đây là thiên cơ lớn nhất hiện nay của thế gian và vũ trụ! Bạn đọc có hiểu được không?
Chữ 談 (đàm), giản thể là 谈. Đàm luận về cái gì? Nét chấm biểu tượng cho Thần linh, ở giữa thiên cách là vị trí đúng (chính vị) của chủ, hai nét chấm ở hai bên trái phải của chữ 火 (hỏa) là không chính vị, biểu thị cho tà linh thiên kiến. Chữ 人 (nhân) là tượng âm dương hợp đức, âm dương tương hợp mới có thể thủ trung mà hành, đi theo con đường chính đạo ở giữa thì mới có thể xung phá được cản trở của tà linh thiên kiến từ đó mà thăng hoa lên. Hai chữ 火 xếp chồng tạo thành chữ 炎 (viêm) biểu thị rằng tại tất cả các tầng thứ đều có tình huống này, đều cần dùng chính kiến để phá trừ thiên kiến và tà kiến, có như vậy mới có thể đại hiển quang minh, vì vậy lửa lại có nội hàm của quang minh và hy vọng. Đàm đạo về những chuyện nhỏ nhặt huyên náo thì hỏi có tác dụng gì?
Chữ 講 (giảng), giản thể là 讲. Giảng cái gì? Nét ngang dài ở nhân cách ở giữa phía bên phải chữ 講 là vị trí hiện nay của con người, chữ 井 (tỉnh: cái giếng) ở thiên cách là đại biểu cho phạm vi 囗 của vũ trụ, bốn mặt tám phương của nó trong đó đều có các con đường, đó chính là các phương diện đều xuất hiện các đầu thừa ra, đó chính là các phương diện đều xuất hiện sai lầm, đã không được nữa rồi.
Cái vũ trụ như vậy, đó chẳng phải là một cái hố sao? Vì vậy chữ 井 có tượng như một cái bẫy hại người. Thiên tượng lúc này chính là cái gì cũng đều không được nữa rồi, đã bại hoại rồi. Chữ 冉 (nhiễm) ở địa cách là gồm bộ 土 (thổ) và bộ 冂 (quynh), bộ 冂 là biểu tượng cho phạm vi 囗 của vũ trụ thiếu đi phần địa cách, biểu tượng cho vũ trụ tàn phá đi về hướng hủy diệt, chữ 冂 phía dưới không có đáy, chính là vực sâu không nhìn thấy đáy, vật chất bại hoại thì sẽ trở về trạng thái của thổ bản nguyên của nó, vì vậy chữ 冉 này chính là biểu tượng của 冂 mang 土 rơi xuống. Vậy thì chúng ta thường nói từ từ thăng lên (nhiễm nhiễm thăng khởi) là sự việc gì vậy? Bộ 冂 có một nét 亅 (nét sổ móc), nét móc này là chủ hướng nội, biểu tượng cho ý nghĩa cứu độ, có câu nói, Trời có đức hiếu sinh, khi sinh mệnh đi đến mạt kiếp của vũ trụ, cuối cùng sắp biến thành thổ và kết thúc, thì Thiên thượng sẽ cấp cho cơ hội được cứu độ. Từ từ thăng lên chính là biểu tượng từ đường cùng tuyệt lộ ở dưới đất mà khiến con người khởi tử hồi sinh, điều này chỉ có Thần Phật mới làm được.
Con người có minh bạch được rằng mình đang đối mặt với nguy cục của Thiên địa không? Con người nên làm gì? Chân tướng này cũng cần phải giảng cho con người biết.
Chữ 聽 (thính: nghe), giản thể là 听. Chữ 耳 (nhĩ: tai) và chữ 目 (mục: mắt) tương tự nhau, đều có tam 三 tài Thiên Địa Nhân ở các khoảng không bên trong, có ý rằng tai nghe tất cả là không, căn của tai là thanh tịnh. Nhưng lại có một vị Vương đang bám vào căn của tai nói chuyện, là việc gì vậy?
Kỳ thực, giới tu luyện đã biết các Vương và Chủ của các tầng thứ trong vũ trụ từ lâu đã hạ thế đến thế gian làm người rồi, con người thế gian ngày nay đại đa số là do các Vương các Chủ ấy chuyển sinh, đợi đến thời khắc chính Pháp hồng truyền thời mạt kiếp để đắc Pháp, vì vậy cái tai của bạn không nghe được họ ở trên Thiên thượng nói cái gì, đây chẳng phải là nguyên nhân bạn có thành kính hay không mà là vì hiện nay họ đều đã đến thế gian làm người, đều không còn tại trên Thiên thượng nữa. Vừa đúng ở đây có những người nói với chư vị về Thần Phật, về trọng đức hành thiện, về đạo lý tu luyện thì rất có thể họ chính là Vương là Chủ của thiên quốc nguyên lai của bạn đấy, tuy nhiên hình tướng của họ so với chư vị không khác mấy, nhưng nguyên lai sinh mệnh chân chính của họ không bình thường chút nào, lúc này cần phải nghe những Vương, Chủ ở thế gian này nói với bạn! Đây cũng là một thiên cơ rất lớn.
Họ nói cho bạn cái gì? Chữ 十 (thập: số 10) ở thiên cách biểu tượng cho vũ trụ đã đến lúc âm dương phản bối, chữ 罒 chính là mục nằm ngang, biểu tượng cho các tầng thứ trong vũ trụ đã không còn chính kiến, tà kiến đã thịnh hành, Thiện ác đảo ngược, tội ác tràn lan, vũ trụ đang đi đến bước cuối cùng của bại hoại rồi. Vậy thì làm thế nào?
Thiên đạo tuần hoàn, vật cực tất phản, 一 (nhất: số 1) đại biểu cho dương và chính tính, đại biểu cho ban sơ của vũ trụ, vì vậy cần phải quy chính tâm tính, tu trở về, phản bổn quy chân. Trong những năm qua, chẳng phải bạn đã nhiều lần nghe chân tướng này rồi?
Ngay từ khởi đầu khi Thần sáng tạo thế giới đã an bài cho sự việc tối hậu này, đây là những thiên cơ được ẩn giấu trong văn tự chữ viết. Thời mạt kiếp ngày nay, xã hội phong hóa xuống dốc, người không còn là người, việc giải thích những thiên cơ này chính là vì để con người có thể minh bạch. Là vì chư vị cần phải nghe chân tướng và thiên cơ. Vũ trụ đã đi đến giai đoạn cuối cùng của đại chu kỳ này rồi, âm dương phản bối, phân biệt rõ chính – tà thiện – ác, vật bại hoại bị đào thải, mỗi một sinh mệnh đều phải đối mặt với tuyển chọn tối hậu, Đại Pháp đã khai truyền, hãy trân quý cơ duyên vạn cổ này để có thể nghe chân tướng và thiên cơ!
Chữ 聞 (văn: nghe), giản thể là 闻. Nghe là nghe thiên cơ, khi minh bạch chân tướng, thì Thiên môn cổng trời đã mở ra ở bên tai của chư vị rồi, chư vị đã đứng trong Thiên môn rồi. Có muốn tiến bước đi vào hay không, chính là xem tự tuyển chọn của mỗi người, cơ duyên vạn cổ đang ở trước mặt bạn. Tham khảo thêm về chữ môn “門”.
Chữ 真 (chân): 一 ở thiên cách biểu tượng cho dương, cho hợp, nằm ở vị trí số 9; nét 丨 (cổn: nét sổ thẳng) biểu tượng cho dương ở vị trí chính giữa. Lúc này 一 có những hướng vận động sau, một là hướng thượng tiến vào tầng thứ cao hơn, hai là hướng xuống mà đi đến bại hoại; ba là bảo trì ở chính giữa ở vào trạng thái bất hoại bất diệt. Chữ 八 (bát) ở địa cách biểu tượng cho phân chia, nằm ở vị trí số 1, là trong âm có dương, biểu tượng chữ 八 là có hai hướng vận động kết quả khác nhau, trong đó nét 丿 là biểu tượng của dương thuận Thiên mà đi xuống, nét ㇏ là biểu tượng của âm nghịch Thiên mà đi xuống, 八 biểu tượng cho việc sự vật tại dưới địa cách đi xuống âm dương phân liệt và giải thể, “thuận Thiên tắc sinh, nghịch Thiên tắc diệt”, đây là quy luật của Thiên đạo. Chữở nhân cách, đỉnh Thiên lập địa, 囗 đang trong vận hành châu thiên, ôm chứa tam tài Thiên Địa Nhân, hình thành một thế giới vũ trụ. Dương đi lên âm xuống dưới, thiên địa âm dương tương giao mà tụ hợp diễn hóa ra một thế giới cho đến vạn sự vạn vật trong đó, đây chính là quá trình sinh thành của vũ trụ. Dương đi xuống âm đi lên, âm dương phản bối, vật điêu linh, phân liệt mà giải thể, đây là quá trình hoại diệt của một vũ trụ. Quá khứ, vũ trụ dưới các nguyên lý âm dương của vũ trụ, chính là thành trụ hoại diệt như thế, tuần hoàn theo chu kỳ.
Chữ chân biểu tượng cho vũ trụ, âm dương, trạng thái tồn tại và các tầng thứ cùng khác nhau của tam tài Thiên Địa Nhân, cũng biểu tượng cho quy luật sinh thành và phát triển của Thiên Địa Nhân trong vũ trụ, là biểu đạt trực quan của kết cấu vũ trụ và quy luật diễn hóa trong đó, triển hiện ra chính là chân tướng của vũ trụ.
Giảng “Chân”, chính là cần nhận thức về chân tướng của vũ trụ, là tuân theo quy luật của vũ trụ, nói lời chân, làm việc chân, làm chân nhân, phản bổn quy chân.
Chữ 相 (tương, tướng): con người đều muốn thấy chân tướng, tuy nhiên lại thường bị biểu tượng của thế giới vật chất làm mê mờ con mắt, trước mắt bị cái cây che chắn, nhất diệp chướng mục (một cái lá cây che chắn mắt) mà nhìn không thấy chân tướng, đối với con người mà nói, chữ 相 (tướng) đã trở thành nội hàm là bị che chắn trước mắt, khi nhìn thấy mới tin, chính là biểu hiện bề ngoài của sự vật đang cản trở con người nhận thức chân tướng của vũ trụ, đây chính là giả tướng.
Tuy nhiên 木 ở vị trí số 7, nét dọc và ngang ở chính giữa chữ 木, nét 丿 (phẩy) và nét ㇏ (mác) là thuận thiên, chính là sinh cơ mùa xuân cây cối tràn trề hướng thượng, là biểu tượng của quang minh chính đại và sinh trưởng phát triển trong vũ trụ; chữ 目 (mục) là biểu tượng cho việc nhìn thấu nhìn xuyên hết thảy Thiên Địa Nhân và vạn sự vạn vật trong các tầng thứ vũ trụ, là từ các tầng thứ hướng dọc mà nhìn thấy chân tướng trong các tầng thứ vũ trụ khác nhau, (mời tham khảo chữ mục “目”). Vì vậy nếu như có thể tự mình nắm chắc được sự tồn tại quang minh chính đại trong vũ trụ giống cái cây, nắm được sự tồn tại minh huệ bất hoặc trong vũ trụ, vậy thì người ấy chẳng phải đã đạt đến trạng thái tồn tại của Thần rồi sao? Đó là tướng, tức là thực tướng, chân tướng.
Bạn thấy đó, cùng một chữ, nhưng trong các cảnh giới khác nhau có thể thấy nội hàm khác nhau rất nhiều!
Vậy sao lại chỉ có thể thông qua cặp mắt thịt này nhìn thấy thì mới tin? Trong vũ trụ này có rất nhiều sự vật mà mắt thịt bằng vào ánh sáng khả kiến là không nhìn thấy được, có thứ phải nhìn bằng ống kính viễn vọng quang học, có thứ phải nhìn thông qua kính viễn vọng vô tuyến, có thứ phải nhìn thông qua hồng ngoại quang, cũng có thứ phải nhìn thông qua các phương thức khác. Nhưng người tu luyện, nếu như thiên đã mục khai mở, thì có thể nhìn thấy chân tướng trong rất nhiều các tầng vũ trụ, điều đó là điều mà không thể đạt đến được thông qua các phương pháp kỹ thuật của nhân loại.
Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/2021/05/27/dongfangmima-1.pdf
Ngày đăng: 01-05-2024
Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.
ChanhKien.org