Nhìn thấu Thuyết tiến hóa: Chương 2 – Phá vỡ tư duy sai lầm kinh điển về giả thuyết tiến hóa (Phần 1) (Ảnh Epoch Times)
Mặc dù hóa thạch ẩn trong đá không mở miệng nhưng chúng có thể nói, chúng kể những câu chuyện cổ đại gì?
Bạn biết điều gì khiến Darwin rùng mình mỗi khi nghĩ về nó không? Bạn muốn biết tại sao cổ hươu cao cổ lại dài như vậy – có thật là để ăn lá cây mọc trên cao không?
Amidan, tuyến tùng và tuyến ức dường như teo lại ở người trưởng thành, nhưng chúng có thực sự bị thoái hóa? Bạn có biết điều gì sẽ xảy ra khi bạn phẫu thuật cắt bỏ chúng không?
Năm 2011, tạp chí “Science” của Mỹ đã công bố một nghiên cứu thú vị, nếu bạn nhốt một con chuột vào trong lồng sắt và đặt món sô cô la yêu thích của chúng vào một chiếc lồng khác, bạn có đoán được một con chuột lang thang tự do bên ngoài lồng sẽ làm gì không?
Bạn có biết trò lừa bịp khoa học lớn nhất trong lịch sử nước Anh là gì không? Loại loài nào được cho là “tổ tiên vượn người” cuối cùng đã được xác nhận?
Không chỉ có những lỗi logic cơ bản trong giả thuyết tiến hóa, mà cả dữ liệu thực nghiệm và sự thật khoa học ban đầu được cố gắng chứng minh giả thuyết tiến hóa đều thất bại, về cơ bản đã làm lung lay nền tảng của nó.
Thật không may, dưới ảnh hưởng của giả thuyết tiến hóa của Darwin, mọi người dần dần quen với việc không nghĩ về nó, lầm tưởng giả thuyết là sự thật và tin tưởng sai lầm rằng, các loài sinh vật trên trái đất đã dần dần tiến hóa từ cùng một tổ tiên trong một thời gian dài thời gian, thông qua “chọn lọc tự nhiên”, và các loài chiếm ưu thế do “cạnh tranh sinh tồn” để lại đã hình thành nên nhiều loài sinh vật trong thế giới rộng lớn ngày nay. Giả thuyết tiến hóa vẫn còn ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học của nhân loại trong hơn một trăm năm.
“Giả thuyết tiến hóa” là một ảo tưởng đơn giản, tuyến tính về nguồn gốc của sự sống. Tuy nhiên, ảo tưởng rốt cuộc không thể thay thế sự thật, vậy giai điệu chính thực sự của sự sống là gì? Từ chương thứ hai, chúng tôi sẽ dần dần phân tích sâu.
Về việc tại sao giả thuyết tiến hóa đã thống trị cộng đồng khoa học trong hơn một trăm năm, mặc dù có nhiều sai sót? Câu hỏi kích thích tư duy này, trong các chương tiếp theo của loạt bài viết “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa”, chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận với bạn và từng bước tiết lộ sự thật.
1. Không “tiến hóa chậm ” mà “bùng nổ đột ngột”
1.1 Sự vắng mặt của các loài trung gian – một lỗ hổng được Darwin công nhận
Thuyết tiến hóa cho rằng các loài khác nhau có mối quan hệ phát triển riêng, và một sinh vật sống có thể nhảy từ loài này sang loài khác. Nếu giả thuyết tiến hóa là đúng thì toàn bộ thế giới sinh vật tiến hóa từ sinh vật bậc thấp này lên sinh vật bậc cao khác, và phải trải qua vô số thế hệ loài trung gian với những khác biệt nhỏ.
Nếu giả thiết này là đúng thì ít nhất phải rút ra được hai kết luận sau:
Đầu tiên, hãy phóng to toàn bộ không gian vũ trụ của trái đất ngày nay, vì môi trường sống của mọi sinh vật trên trái đất luôn thay đổi, bao gồm biến đổi khí hậu, tăng carbon dioxide, ô nhiễm môi trường, v.v. Những sinh vật này đều sẽ “tiến hóa” liên tục thành các vật chủng mới để “thích nghi với môi trường”.
Hơn nữa, rất nhiều sinh vật trên thế giới sống trong rất nhiều loại môi trường sinh thái khác nhau, vì vậy sẽ luôn có một mắt xích trung gian trong quá trình biến đổi loài đang diễn ra.
Tuy nhiên, thực tế là tất cả các sinh vật sống trên trái đất đều theo loại của chúng, từ các loài động vật và thực vật khác nhau cho đến loài người cao cấp nhất, tất cả các loại sinh vật đều theo loại của chúng, và chưa có nhà khoa học nào báo cáo rằng đã sản sinh ra một loài trung gian.
Thực tế là không có loài trung gian trên trái đất hiện nay, chính Darwin đã xếp hạng đầu tiên trong bốn khó khăn và ý kiến phản đối được liệt kê trong Chương 6 “Khó khăn của học thuyết” của cuốn “Nguồn gốc các loài” . “Tính độc đáo của từng dạng sống cụ thể và việc chúng không có vô số liên kết chuyển tiếp để trộn lẫn với nhau là một khó khăn rất rõ ràng… và đây có lẽ là ý kiến phản đối rõ ràng và nghiêm trọng nhất đối với lý thuyết của tôi.” (75)
Thứ hai, chúng ta nhìn lại lịch sử của trái đất và đưa tọa độ thời gian trở về thời xa xưa.
Trên trái đất có vô số sinh vật, sau khi chúng chết đi, di thể hay di tích của chúng đều bị đất cát vùi lấp. Sau đó, trải qua thời gian dài, các chất hữu cơ bị phân hủy, các phần cứng như vỏ, xương, cành, lá, hóa thạch thành đá, nhưng hình dạng, cấu trúc và một số cấu trúc bên trong vẫn được bảo tồn. Tương tự như vậy, các dấu vết do sinh vật để lại cũng có thể được bảo tồn.
Những di vật hoặc di thể sinh học hóa đá này được gọi là hóa thạch. Thông qua hóa thạch, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của động vật và thực vật cổ đại, suy ra điều kiện sống và môi trường của chúng, suy ra tuổi hình thành và những thay đổi của địa tầng nơi chôn vùi hóa thạch, v.v.
Nếu sự sống trên trái đất tiến hóa dần dần từ các sinh vật cổ đại, thì cổ sinh vật học, nghiên cứu về hóa thạch, sẽ có thể tìm thấy hóa thạch chứng minh rằng một loài “tiến hóa” thành loài khác.
Ví dụ, nếu loài A thực sự có thể dần dần thay đổi thành loài B, thì có thể tìm thấy một “hình thức thay đổi dần dần chuyển tiếp” giữa hai loài. Các hóa thạch có đặc điểm của cả A và B được gọi là “khâu trung gian”.
Do đó, Darwin đã viết trong cuốn “Nguồn gốc các loài”: “Chắc chắn rằng nếu thuyết ‘tiến hóa’ này là đúng, thì một thứ như vậy đã tồn tại trên trái đất”, thế thì “sự khác biệt giữa tất cả các loài đang sống và các loài đã tuyệt chủng số lượng các khâu trung gian và chuyển tiếp hẳn là không thể tin được.” (76) (The number of intermediate and transitional links, between all living and extinct species, must have been inconceivably great. But assuredly, if this theory [of evolution] be true, such have lived upon the earth.)
Ý của Darwin là, nếu các sinh vật thực sự tiến hóa chậm và dần dần từ động vật không xương sống đến động vật có xương sống, từ cá đến lưỡng cư, bò sát đến chim và động vật có vú, thì hóa thạch của các loại trung gian trên trái đất phải ở khắp mọi nơi thì mới đúng.
Nhưng cho đến nay, mặc dù các nhà khảo cổ học đã rất nỗ lực để tìm kiếm những loại sinh vật trung gian như vậy, nhưng vẫn chưa tìm thấy hóa thạch nào như vậy. Hồ sơ hóa thạch có thể nói đã làm Darwin thất vọng.
Vì là hóa thạch nên không trầm tích có chọn lọc. Tại sao chỉ các loại hóa thạch sinh học trung gian này lại thiếu vắng? Một lời giải thích hợp lý hơn có thể là những loại trung gian này không bao giờ phát sinh.
Sau này, trong cuốn “Nguồn gốc các loài”, Darwin thừa nhận: “Thật là một khó khăn rất rõ ràng [giữa các hóa thạch khác nhau] để có sự độc nhất sắc nét (giữa các hóa thạch khác nhau), và không thể kết nối chúng với mọi hệ tầng đầy đủ các khâu trung gian như vậy? Chắc chắn địa chất sẽ không tiết lộ bất kỳ chuỗi hữu cơ nào của sự tiến hóa tinh tế và dần dần như vậy; và đây có lẽ là ý kiến phản đối rõ ràng và nghiêm trọng nhất đối với lý thuyết của tôi” (The distinctiveness of specific forms, and their not being blended together by innumerable transitional links, is a very obvious difficulty…… Why then is not every geological formation and every stratum full of such intermediate links? Geology assuredly does not reveal any such finely-graduated organic chain; and this, perhaps, is the most obvious and serious objection to my theory.) (77)
1.2 Hóa thạch không chứng minh được Thuyết tiến hóa
Việc thiếu các loại hóa thạch trung gian là khó khăn lớn nhất trong việc chứng minh giả thuyết tiến hóa, đây là đòn trí mạng cho giả thuyết tiến hóa.
Darwin vào thời điểm đó đã đổ lỗi cho sự không đầy đủ của hồ sơ hóa thạch. Sau hơn 100 năm làm việc chăm chỉ, các nhà khoa học đã phát hiện ra nhiều địa tầng được bảo tồn tốt, và tiến hành nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về các hóa thạch được bảo tồn trong đó, nhưng các loại hóa thạch trung gian vẫn rất khó tìm.
Stephen Jay Gould, giáo sư cổ sinh vật học tại Đại học Harvard ở Hoa Kỳ, đã kết luận sau khi đánh giá các hóa thạch rằng “nếu quan điểm của sự tiến hóa là giải thích sự thay đổi dần dần của sinh vật này thành sinh vật khác, thì các đặc điểm đáng chú ý của hóa thạch chính là đã chứng minh sự tiến hóa là không có bằng chứng”. (In short, if evolution means the gradual change of one kind of organism into another kind, the outstanding characteristic of the fossil record is the absence of evidence for evolution.) (78)
Tiến sĩ Colin Patterson (1933-1998) (79), nhà cổ sinh vật học người Anh và chuyên gia có uy tín về nghiên cứu hóa thạch, đã làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London từ năm 1962 đến năm 1993. Năm 1981, ông đề xuất trong một bài thuyết trình tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ: “Có ai trong số các bạn có thể cho tôi biết bất kỳ bằng chứng thực sự nào về sự tiến hóa, thậm chí là một mẩu bằng chứng thực sự không?” (Can you tell me anything about evolution,” he asked his listeners, “any one thing, that is true?)
Ngày 10-4-1979, Tiến sĩ Patterson gửi thư cho kỹ sư hàng không vũ trụ Mỹ Luther Sunderland (1929 – ), với tựa đề: “Không một hóa thạch đơn lẻ nào có thể chứng minh Thuyết tiến hóa!!” (Not one fossil of evidence fossil for evolution!!), đoạn trích như sau:
“Bạn nhận xét rằng cuốn sách của tôi thiếu những minh họa trực tiếp về quá trình quá độ tiến hóa, và tôi hoàn toàn đồng ý. Nếu tôi biết về bất kỳ hóa thạch hoặc sinh vật nào (cho thấy sự quá độ tiến hóa), tôi sẽ đưa chúng vào. Bạn đề nghị nên mời một họa sĩ đến để hình tượng hóa thị giác quá trình của những biến đổi này, nhưng anh ấy sẽ lấy thông tin này ở đâu? Tôi không thể cung cấp thông tin đó một cách trung thực, và nếu tôi để họa sĩ làm bất cứ điều gì anh ấy muốn, liệu điều đó có gây hiểu lầm cho người đọc không? …Tuy nhiên, Gould và những người ở Bảo tàng Hoa Kỳ gặp khó khăn bác bỏ khi họ nói rằng không có hóa thạch quá độ. Là một nhà cổ sinh vật học, tôi rất bận rộn với những câu hỏi triết học về việc xác định các dạng tổ tiên trong hồ sơ hóa thạch. Bạn nói rằng tôi ít nhất nên ‘cho xem một bức ảnh về hóa thạch cùng với nguồn gốc của từng loại dạng sinh học’. Tôi nói một cách thẳng thắn – không có hóa thạch nào như vậy có thể cho phép chúng ta đưa ra một lập luận chặt chẽ, bởi vì những tuyên bố về tổ tiên và di truyền không áp dụng cho hồ sơ hóa thạch.” (80)
(I fully agree with your comments on the lack of direct illustration of evolutionary transitions in my book. If I knew of any, fossil or living, I would certainly have include them. You suggest that an artist should be asked to visualize such transformations, but where would he get the information from? I could not honestly provide it, and if I were to leave it to artist licence, would not this mislead the reader?
……Yet Gould and the American Museum people are hard to contradict when they say there are no transitional fossils. As a paleontologist myself, I am much occupied with the philosophical problems of identifying ancestral forms in the fossil record. You say that I should at least “show a photo of the fossil from which each type of organism was derived.” I will lay it on the line – there is not one such fossil for which one could make a watertight argument. The reason is that statements about ancestry and descent are not applicable in the fossil record.)
1.3 “Tổ tiên của vượn người” không tồn tại
Xét về phân loại sinh học hiện đại, con người thuộc loài người, thuộc người, tổng khoa vượn người (Hominidae), mục linh trưởng, cương động vật có vú, môn động vận xương sống, thuộc giới động vật (81); về mặt phân loại sinh học, vượn hiện đại thuộc khoa vượn tay dài (Hylobatidae), tổng khoa vượng người, mục linh trưởng, cương động vật có vú, môn động vật xương sống, thuộc giới động vật (82), v.v.
Giả thuyết tiến hóa cho rằng, cả người và vượn đều tiến hóa từ một tổ tiên chung được gọi là “vượn thủy tổ”, trải qua một thời gian dài thành hai loài khác nhau, người hiện đại và khỉ hiện đại.
Lý thuyết và hình ảnh trực quan về quá trình tiến hóa từ linh trưởng nguyên thủy đến con người này đã được viết trong sách giáo khoa hơn một trăm năm, và có một số bằng chứng khảo cổ học khẳng định đã tìm thấy “tổ tiên vượn người”, nhưng những cái gọi là ‘bằng chứng’ này thực sự tồn tại không?
Nếu chúng ta tìm thấy một vài bộ phận bị hỏng nằm rải rác trên đường cao tốc như gương, lốp xe, tấm kim loại, v.v., làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng tất cả chúng đều đến từ cùng một chiếc xe? Hoặc thậm chí chúng có thể không đến từ một chiếc sedan mà là từ một chiếc mô tô hoặc xe bán tải?
Hầu hết các hóa thạch được tìm thấy ở dạng mảnh và mảnh – xương hàm ở đây, xương chân hoặc răng ở kia – và sau đó các nhà khoa học phải tìm ra, với khó khăn có thể hình dung được, liệu các mảnh đó có đến từ cùng một cá thể hay không. Cố gắng tái tạo lại cuộc sống nguyên thủy từ những mảnh hóa thạch cũng giống như cố gắng mô tả một tòa nhà phức hợp chỉ còn lại một mảnh tường đổ nát.
Tuy nhiên, giọng điệu kiên quyết của giáo viên trong lớp học và mô hình tái tạo bộ xương của Thuyết tiến hóa trong bảo tàng sẽ khiến học sinh và du khách lầm tưởng rằng đã tìm thấy “khâu còn thiếu”. Tuy nhiên, rất ít người nhận ra rằng, một số công trình tái tạo này đã được chứng minh không phải là tổ tiên của vượn người, hơn nữa có cái còn được ghép lại với nhau.
Những hóa thạch người vượn nổi tiếng nhất được coi là “khâu còn thiếu” giữa vượn người cổ đại và người hiện đại là người Neanderthal, Lucy ở Đông Phi và Người Java ở Indonesia.
1.3.1 Người Neanderthal không phải là tổ tiên loài người
Năm 1857, những mảnh sọ người và các xương khác được tìm thấy trong các hang động đá vôi ở Thung lũng Neanderthal ở Tây Bắc nước Đức. Sau đó, GS Hermann Schaaffhausen (1816-1893), giáo sư giải phẫu học tại Bonn, Đức đã nghiên cứu về người trán thấp và hẹp, phần gờ mày lớn gần như nối liền với nhau tạo thành một khối phồng ngang, vòm trán phẳng và khác thường. Sốc bởi kích thước của hộp sọ. Ông tin rằng hài cốt thuộc về “một chủng tộc man rợ, chưa khai hóa” có thể được coi là những cư dân lâu đời nhất của châu Âu (83).
Quan điểm của Schaffhausen được hỗ trợ bởi Thomas Henry Huxley (1825–1895), một người ủng hộ giả thuyết tiến hóa. Một mặt, Huxley thừa nhận rằng hộp sọ của người Neanderthal rất gần với loài vượn, nhưng mặt khác, ông vẫn tin rằng nó có thể được đặt trong mối liên hệ tiến hóa từ loài vượn thành người, và tin rằng ông đã tìm ra khâu trung gian của quá trình tiến hóa từ vượn thành người.
Năm 1864, nhà giải phẫu học Tiến sĩ William King ( 1809-1886) tuyên bố rằng đó là một người vượn giữa người và vượn, và đặt tên cho nó là “Homo neanderthalensis“. (84)
Tuy nhiên, người sáng lập ngành tế bào học đương đại và nhà nghiên cứu bệnh học nổi tiếng Giáo sư Tiến sĩ Rudolf Virchow (1821–1902) sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng đã cho rằng, đó là bộ xương của một ông già mắc bệnh khớp. Virchow từ chối hài cốt của người Neanderthal là bằng chứng hóa thạch cho người sơ khai. (85)
Ngoài ra, Tiến sĩ Matthias Krings thuộc Viện Động vật học, Đại học Munich, Đức và những người khác đã xác định vùng siêu biến đổi của DNA ty thể (mtDNA) trong xương của “Người Neanderthal”. Tôi đã tiến hành phân tích và phát hiện ra rằng “Người Neanderthal” không phải là tổ tiên của người hiện đại, và tin rằng người Neanderthal đã tuyệt chủng mà không đóng góp gen cho người hiện đại. Bài báo của họ đã được xuất bản trên tạp chí có thẩm quyền “Cell” vào năm 1997. (86)
Sau đó, Tiến sĩ Klings đã nghiên cứu lại các gen của vùng II có thể siêu biến đổi của DNA ti thể (mtDNA) của xương “Người Neanderthal”, và xác nhận rằng mtDNA của người Neanderthal nằm ngoài cây phát sinh loài có liên quan đến mtDNA của người hiện đại, tiếp tục hỗ trợ cho phát hiện năm 1997 rằng “Người Neanderthal ” không phải là tổ tiên của người hiện đại. Bài báo đã được xuất bản trên tạp chí có thẩm quyền “Tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia (PNAS)” vào năm 1999. (87)
Nói tóm lại, các nghiên cứu khác nhau đều phủ nhận chung kết luận rằng “Người Neanderthal là loài tổ tiên của người hiện đại”. Mặc dù các tạp chí “Khoa học” (88) và “Nature” (89) sau này đã báo cáo những điểm tương đồng cực kỳ nhỏ giữa gen của người Neanderthal và gen của con người hiện đại, điều đó không thay đổi kết luận rằng “người Neanderthal” không phải là tổ tiên của loài người.
1.3.2 Lucy không phải là tổ tiên chung của vượn người
Năm 1974, mẫu hóa thạch “Lucy” được phát hiện ở Đông Phi thuộc loài “Australopithecus afarensis”, loài từng được coi là tổ tiên chung của loài vượn người.
Nếu là bộ xương của “tổ tiên người vượn” thì nó phải có những đặc điểm chung giữa người và vượn người. Các khớp tay chân của con người hầu như thẳng và mở rộng, trong khi các khớp của khỉ thường cong. Đây là những dễ dàng nhận thấy rõ ràng về mặt giải phẫu.
Tuy nhiên, các nhà giải phẫu học Jack Stern và Randall Sussman của Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Bang New York đã báo cáo trên Tạp chí Nhân chủng học Vật lý Hoa Kỳ năm 1983 rằng, đầu gối của vượn cổ phương Nam không có các đặc điểm hiện đại ở mức độ rõ ràng, cấu trúc tổng thể của khớp gối tương thích với mức độ vận động lớn của động vật sống trên cây, và nó có các ngón tay và ngón chân dài, cong đặc trưng của các loài sống trên cây
Mặc dù khi bài báo năm 1983 của tờ New York Times “Liệu Lucy có thực sự đứng lên trên đôi chân của mình?” đăng tải, các nhà khoa học vẫn đang tranh cãi hay ủng hộ các quan điểm khác nhau (91) về việc Lucy đi thẳng đứng, nhưng khi ngày càng có nhiều bằng chứng được phát hiện sau đó, danh tính thực sự của Lucy đã lộ diện.
Tiến sĩ Charles Oxnard, cựu giáo sư giải phẫu và sinh học người tại Đại học Tây Úc, đã tiến hành phân tích phức tạp trên máy tính hóa thạch vượn cổ phương Nam và kết luận rằng: Australopithecus không liên quan đến tổ tiên của chúng ta, mà chỉ là một loài vượn đã tuyệt chủng. Kết luận này được công bố vào năm 1987 trong cuốn sách “Hóa thạch, răng và giới tính: Những quan điểm mới về sự tiến hóa của loài người” do Đại học Washington xuất bản . (The australopithecines may well have been sibling groups to both the African apes and humans. This is an idea that would remove the australopithecines from being closely related to the human lineage and would place them unequivocally within an evolutionary radiation. Of these lineages, some, australopithecines, became extinct; some African apes, are almost extinct; only one genus, Homo, survives strongly at the present time). (92)
Giáo sư David A. Plaisted, tiến sĩ khoa học máy tính tại Đại học Stanford, trong một bài báo có tiêu đề “Lucy và vấn đề xương sọ 1470” được đăng trên trang web UNC-Chapel Hill, đã trích dẫn quan điểm và bằng chứng nêu trên của Stern, Sussman và Oxnard. (93)
Vào năm 2012, một bài báo trên tạp chí “Khoa học” đã phân tích hóa thạch xương bả vai của các cá thể afarensis của loài Australopithecus và phát hiện ra rằng nó vẫn giữ được các đặc điểm của việc leo trèo, và là một loài leo trèo tích cực. (94)
Vì vậy, có nhiều bằng chứng cho thấy Australopithecus afarensis là một loài vượn đã tuyệt chủng. Địa vị của Lucy với tư cách là tổ tiên của người vượn người không còn được thiết lập nữa.
Mặc dù vậy, người ta đã tạc tượng Lucy, đặt tay chân người lên rồi đưa vào viện bảo tàng, khiến mọi người lầm tưởng Lucy là tổ tiên chung của loài người và loài vượn, khiến quần chúng lầm tưởng con người là loài khỉ tiến hóa thành.
1.3.3 Người Java chắp vá
Năm 1891, bác sĩ và nhà giải phẫu học người Hà Lan Eugene Dubois (1858–1940) đã tìm thấy một hộp sọ, một mảnh xương đùi và ba chiếc răng; được gọi là “người Java” lịch sử.
Sau đó, nhiều câu hỏi đã được đặt ra về mẫu vật này. Đầu tiên, không rõ liệu xương có đến từ cùng một loài hay không, và chúng có khả năng là sự chắp vá. Một số nhà khoa học tin rằng phát hiện của Dubois chỉ là một con vượn, những người khác tin rằng đó là một bộ xương hiện đại bị bệnh, và những người khác tin rằng nó là sự kết hợp giữa xương đùi của người hiện đại và hộp sọ của vượn. Sir Arthur Keith, một nhà giải phẫu học tại Đại học Cambridge (1866-1955), đã phát hiện ra rằng, hộp sọ đầu tiên được phát hiện rõ ràng là của con người ngày nay, và dung lượng não của nó nằm trong phạm vi dung lượng não của con người ngày nay. (95)
Giáo sư Rudolf Virchow, một nhà nghiên cứu bệnh học được mệnh danh là “cha đẻ của bệnh lý học”, rất hào hứng với việc phát hiện ra “Người Java” ngay từ đầu, ông đã đích thân đến thăm Dubois và mời ông có bài phát biểu tại Berlin. Sáu bài báo về khám phá mới này đã được xuất bản vào năm 2019. Mặc dù vậy, Virchow không thể chấp nhận khám phá của Dubois như một phần bổ sung cho cây tiến hóa của loài người. Không thể phủ nhận xương đùi có đăcẹ trưng của người nguyên thủy, trong khi hộp sọ giống vượn hơn. Ông phân loại hài cốt là hai sinh vật khác nhau, lập luận rằng xương đùi ốm yếu là của con người, trong khi hộp sọ là của một con vượn khổng lồ. (96)
Nói tóm lại, tất cả những hóa thạch từng được coi là “tổ tiên loài người” – “Neanderthal” và “Lucy” không còn được coi là “tổ tiên loài người”; “Người Java” là sự chắp vá của các xương động vật khác nhau; và “Người vượn Pilton” và “Người Nebraska” được giới thiệu sau đó đã bị phát hiện là lừa đảo và không ai trong số họ có thể được chứng minh là tổ tiên xa xưa của loài người và của loài vượn.
Tổ tiên giả định của “người vượn” chưa bao giờ được tìm thấy cho đến nay. Giả thuyết “con người tiến hóa từ khỉ” vẫn chưa được kiểm chứng bằng hóa thạch.
1.4 Không có loài trung gian giữa khủng long và chim
Chim thủy tổ (Archaeopteryx) từng được coi là loài trung gian giữa khủng long và chim, và được dùng để chứng minh thuyết tiến hóa của Darwin.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu về Archaeopteryx, lông, xương, cấu trúc não và cấu trúc tai trong của Archaeopteryx rất giống với các loài chim hiện đại. (97) Cấu trúc tai trong của Archaeopteryx cho thấy nó có thính giác tốt và cảm giác thăng bằng.
Alan Feduccia thuộc Khoa Động vật học tại Đại học Bắc Carolina cũng đã chỉ ra trong tạp chí “Khoa học” rằng, loa tai trong lông bay chính của Archaeopteryx phù hợp với mô hình bất đối xứng của loài chim bay hiện đại – Ý nghĩa của các đặc điểm không đối xứng thể hiện khả năng bay của chúng (98). Ở đây tôi xin giải thích rằng, các đường viền cơ thể của các loài chim bay hiện đại là đối xứng, và sự bất đối xứng chủ yếu được phản ánh trong các lông bay, đặc biệt là sự bất đối xứng của loa tai có cạnh đầu tiếp xúc gần với luồng không khí đang bay.
Những đặc điểm này gợi ý rằng Archaeopteryx đã có những điều kiện cần thiết để bay, chứ không phải là một giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình tiến hóa của nó.
Hóa thạch Archaeoraptor được cho là bằng chứng tốt nhất về sự tiến hóa từ khủng long ăn thịt thành chim kể từ hóa thạch Archaeopteryx. Tiến sĩ Timothy B. Rowe thuộc Khoa Khoa học Địa chất tại Đại học Texas ở Austin nghiên cứu về các hóa thạch Protoraptor từ các tầng kỷ Creta sớm ở Trung Quốc, đăng trên tạp chí Nature vào tháng 3 năm 2001. Nghiên cứu của Tiến sĩ Rowe đã phát hiện ra rằng, hóa thạch bị cáo buộc là giả mạo, sự pha trộn giữa đuôi khủng long và xương chim nguyên thủy. (99)
Các đồng tác giả của bài báo bao gồm Tiến sĩ Richard A. Ketcham, nhà khoa học tại Khoa Khoa học Địa chất và Matthew Colbert, Tiến sĩ, cộng tác viên nghiên cứu, Nhà cổ sinh vật học có xương sống, Tiến sĩ Cambria Denison thuộc Phòng thí nghiệm Cổ sinh vật có xương sống, và Từ Tinh (Xing Xu) thuộc Viện Cổ sinh vật có xương sống và Cổ sinh vật học tại Viện nghiên cứu Trung ương Bắc Kinh, Trung Quốc, và Tiến sĩ Philip J. Currie thuộc Bảo tàng Cổ sinh vật học Hoàng gia Tyrrell, Drumheller, Alberta, Canada.
Do đó, nhiều bằng chứng cho thấy Archaeopteryx không phải là loài trung gian giữa chim và khủng long, cũng như không có loài trung gian nào giữa hai loài này.
1.5 Đặc điểm của hóa thạch thách thức “giả thuyết tiến hóa”
Như chúng tôi đã đề cập trước đó, Tiến sĩ Patterson, một chuyên gia hóa thạch người Anh, không muốn sử dụng hóa thạch giả để đánh lừa công chúng, vì ông thấy rằng không có hóa thạch nào có thể chứng minh giả thuyết tiến hóa. Đây có thể nói là sự thức tỉnh ban đầu sau khi Patterson nhận ra sai lầm của “giả thuyết tiến hóa”, và sau đó nghiên cứu về hóa thạch của nhà cổ sinh vật học người Mỹ Gould là một bước cải tiến thực chất hơn.
Vào những năm 1970, giáo sư cổ sinh vật học Stephen Jay Gould của Đại học Harvard (1941-2002) đã đánh giá lại các hóa thạch từ khắp nơi trên thế giới, và cho rằng, hầu hết các sinh vật sống trong lịch sử hóa thạch đều chứa hai đặc điểm xung đột (100):
(1) Tính ổn định: Khi hầu hết các loài xuất hiện trong địa tầng thì bề ngoài của chúng hầu như giống hệt như khi bị đào thải. Ngay cả khi có những thay đổi về hình dạng, chúng cũng rất hạn chế và không thể hiện hướng tiến hóa.
(2) Đột ngột xuất hiện: Kết quả các cuộc khảo sát trên thế giới đã khẳng định, không phải loài nào cũng dần dần biến đổi từ “tổ tiên”, trái lại, các loại sinh vật khi xuất hiện đều đã “toàn bộ hoàn thành”.
Nói tóm lại, nếu tiến hóa có nghĩa là sự thay đổi dần dần của một sinh vật thành một sinh vật khác, thì đặc điểm nổi bật của hồ sơ hóa thạch là thiếu bằng chứng về sự tiến hóa.
Ví dụ, một sinh vật cổ đại tên là “bọ ba thùy” (trilobite) được các nhà khảo cổ học phát hiện đã sống trên trái đất của chúng ta từ 600 triệu đến 260 triệu năm trước, và biến mất sau 260 triệu năm. Bọ ba thùy được chứng minh là một trong những sinh vật lâu dài nhất thời tiền sử. 340 triệu năm đã trôi qua kể từ khi được phát hiện cho đến khi nó biến mất hoàn toàn, nhưng bọ ba thùy vẫn là bọ ba thùy và không hề có sự tiến hóa nào cả. Nó thực sự không tiến hóa trong 340 triệu năm cho đến khi nó biến mất một cách tự nhiên. Điều này cũng một bằng chứng rất mạnh mẽ có khả năng chứng minh thuyết tiến hóa không tồn tại.
Do đó, hóa thạch không những không thể ủng hộ giả thuyết tiến hóa mà còn đặt câu hỏi sâu sắc về khả năng “tiến hóa chậm”.
1.6 Lời nhắc nhở về hóa thạch kỷ Cambri: Sự bùng nổ của sự sống
Kỷ Cambri, khoảng 541 triệu đến 485,4 triệu năm trước, đánh dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử sự sống trên Trái đất.
Trước kỷ Cambri, không có động vật phức tạp nào và hồ sơ hóa thạch rất thưa thớt. Năm 1909, tại Burkis Shale ở Canada, một số lượng lớn hóa thạch động vật biển từ kỷ Cambri đã được phát hiện. Các hóa thạch bao gồm 20 đến 35 ngành khác nhau như động vật chân đốt, tay cuộn, giun, bọt biển và động vật xương sống. Hơn 17.000 loài được biết là đã sống sót đến kỷ Permi cách đây 250 triệu năm. Hiện tượng này được gọi là Bùng nổ Sự sống kỷ Cambri. (101)
Động vật chân đốt mang tính biểu tượng của kỷ Cambri là bọ ba thùy. Bọ ba thùy có cơ thể phẳng, phân đoạn, tầng mạ, giúp bảo vệ chúng trong một đại dương ngày càng nhiều động vật ăn thịt. Bọ ba thùy có nhiều loại và kích cỡ khác nhau, có chiều dài từ 1 milimét đến hơn 2 feet (0,6 mét) và đã được chứng minh là một trong những loài động vật thời tiền sử thành công và lâu dài nhất.
Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy hiện tượng tương tự trong nghiên cứu về nhóm hóa thạch Chengjiang ở Trung Quốc, xác nhận sự xuất hiện đột ngột của sự sống. Họ đã tìm thấy hóa thạch của nhiều loại động vật khác nhau từ 530 triệu năm trước ở Trừng Giang (Chengjiang), bao gồm bọt biển, sứa, xúc tu, giun, giun nhung, tay cuộn, nhiều loại động vật chân đốt và động vật xương sống, bán xương sống bậc cao. (102)
Theo giả thuyết tiến hóa của Darwin, các sinh vật phải trải qua quá trình tiến hóa chậm trong thời gian dài, tích lũy các biến thể nhỏ và dần dần tiến hóa thành “chi” mới, “họ” mới và “ngành” mới thông qua chọn lọc tự nhiên. Xem xét số lượng lớn các loài xuất hiện trong kỷ Cambri, chúng phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài, nhưng tại sao những quá trình này không được ghi lại đầy đủ trong hồ sơ hóa thạch? Hồ sơ hóa thạch phải là ngẫu nhiên, vậy tại sao quá trình chuyển đổi trước kỷ Cambri lại bị thiếu?
Đây là một câu hỏi rất quan trọng. Trên thực tế, có khả năng là do cách sự sống bắt nguồn không phải là một quá trình tiến hóa lâu dài mà là một sự kiện đột ngột, nên thực sự có thể tồn tại cái gọi là thời kỳ “nguồn gốc của sự sống”.
Năm 1972, Gould, giáo sư cổ sinh vật học tại Đại học Harvard, và Niles Eldredge, nhà cổ sinh vật học kiêm người phụ trách Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ lập luận rằng, các loài trải qua tình trạng trì trệ trong thời gian dài, sau đó là sự thay đổi nhanh chóng trong khoảng thời gian tương đối ngắn trong các sự kiện biệt lập, chẳng hạn như sự hình thành của các thảm họa địa chất lớn, sau đó là thời gian dài ổn định, trong thời gian đó thể sinh vật dường như không phát sinh biến đổi thêm một bước nào. (103)
Nói tóm lại, sự bùng nổ sự sống ở kỷ Cambri thực sự là một sự kiện rất kỳ lạ, chắc chắn khám phá này đã mang lại những thách thức quan trọng cho giả thuyết tiến hóa.
1.7 Nghiên cứu DNA ty thể: con người và hầu hết động vật đều bằng tuổi nhau
Mọi mặt hàng trong siêu thị đều có mã vạch như một dấu hiệu để nhận biết chúng, tương tự như vậy, việc nhận dạng giữa các loài khác nhau trên trái đất cũng có một mã vạch nằm trên gen, có thể thể hiện dấu hiệu của loài này, được gọi là mã vạch DNA (DNA barcoding), trong đó nhiều loại mã vạch DNA dựa trên các vùng ngắn, có tính biến đổi cao của bộ gen.
Để nhận dạng các loài động vật, gen tiểu đơn vị I (cytochrom c oxidase I, COI) của ty thể thường được sử dụng làm trình tự mã vạch DNA phổ quát. (104)
Trong một bài báo năm 2018 được công bố trên tạp chí Human Evolution, các cộng sự nghiên cứu cấp cao Mark Stoeckle từ Đại học Rockefeller New York, và David Thaler từ Đại học Basel Thụy Sĩ, đã phát hiện ra rằng họ đã thực hiện một nghiên cứu với hàng trăm nhà nghiên cứu trên khắp thế giới về 100.000 loài động vật, và 5 triệu ảnh chụp nhanh gen từ cơ sở dữ liệu GenBank của Hoa Kỳ cho thấy rằng, dựa trên sự đa dạng nucleotide trong vùng COI của các cá thể khác nhau của cùng một loài, có thể tính toán ra độ tuổi mà một loài xuất hiện lần đầu tiên. (105)
Có lẽ kết quả đáng ngạc nhiên nhất của nghiên cứu này là sự đa dạng di truyền COI của mã vạch DNA là “gần như giống nhau” đối với hầu hết các loài trên Trái đất. Nói cách khác, chín trong số mười loài trên trái đất ngày nay, bao gồm người, chim, cá, gấu, v.v., được hình thành từ 100.000 đến 200.000 năm trước, chứ không phải tiến hóa từ từ như mô tả trong cây tiến hóa.
Nghiên cứu này đã được nhiều trang web truyền thông chính thống đưa tin, bao gồm Yahoo và Phys.Org (106), chuyên theo dõi thông tin khoa học mới nhất ở Vương quốc Anh. Phóng viên Marlowe HOOD của Agence France-Presse đã thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với các nhà nghiên cứu, và đăng một bài bình luận, lập luận rằng việc phát hiện ra sự xuất hiện đột ngột của một số lượng lớn các loài sinh vật, hoàn toàn khác với giả thuyết về thuyết tiến hóa rằng “các loài được tạo ra từ từ thông qua quá trình tiến hóa”. David Thaler, một trong những nhà nghiên cứu, gọi đó là “sự bối rối của Darwin” khi ông trả lời phỏng vấn.
Một phát hiện thú vị khác từ nghiên cứu của Đại học Rockefeller trên Phy.Org (107) là rất khó để tìm ra “loài trung gian” – bước đệm của quá trình tiến hóa giữa các loài – xét về đặc điểm di truyền. Tiến sĩ Thaler cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Sự hiểu biết của Darwin về ‘nguyên nhân của sự vắng mặt của các loài trung gian’ vẫn là một vấn đề lớn”.
Tiến sĩ Thaler nói thêm: “Nghiên cứu này là một cách mới để chỉ ra rằng các loài là ‘hòn đảo trong không gian trình tự’. Mỗi loài có trình tự đồng thuận hẹp và rất cụ thể, giống như hệ thống điện thoại của chúng ta có các mã số ngắn, duy nhất để phân biệt các thành phố và các nước”.
Tiến sĩ Thaler nói thêm: “Nếu các cá thể là các ngôi sao, thì các loài là các thiên hà. Chúng là các cụm sao dày đặc trong không gian rộng lớn của dãy trống.”
Một bài đánh giá trên tờ Evolution News & Science Today, có tiêu đề “Con người và động vật (hầu hết) đều cùng độ tuổi?” nêu bật một khám phá về nguồn gốc của các sinh vật hoàn toàn khác với giả thuyết tiến hóa. (108)
Và nghiên cứu này dường như chỉ ra một quy luật phổ biến với hiện tượng xuất hiện đột ngột của các sinh vật kỷ Cambri, tức là sự sống dường như luôn xuất hiện đột ngột trong một khoảng thời gian nhất định, chứ không phải tiến hóa từ từ.
Nhân loại cần nghiêm túc xem xét, nghiên cứu vấn đề này, chấp nhận, tiếp thu hoặc đề xuất những học thuyết mới với một tâm hồn cởi mở hơn, để ngày càng tìm ra câu trả lời đích thực về nguồn gốc sự sống.
1.8 Hóa thạch kể câu chuyện gì?
Thông thường, xác động vật và thực vật biến mất nhanh chóng sau khi chết, vì xác thối rữa, và vi sinh vật nhanh chóng phân hủy chúng. Một số lượng lớn hóa thạch động vật và thực vật được bảo tồn vì chúng được chôn vùi ngay sau khi chết. Trừ khi bị chôn vùi nhanh chóng và hóa thạch ngay sau đó, phần còn lại của hầu hết các sinh vật sẽ không được bảo quản.
Hiện tượng hóa thạch thực ra chỉ gợi ý về sự tồn tại của các sự kiện thảm khốc. Hồ sơ địa chất cho thấy sự tồn tại của các sự kiện thảm khốc và tuổi địa chất của hóa thạch có thể chính xác là thời điểm xảy ra thảm họa. (109) (xem “Chương 8” để biết chi tiết)
Vào ngày 8 tháng 11 năm 2021 , tờ báo “The Deseret News” đã đăng một bài báo có tựa đề “Tại sao hóa thạch 300 triệu năm tuổi này được phát hiện ở Utah lại khiến giới cổ sinh vật học xôn xao” (110), đưa tin rằng một hóa thạch đã được khai quật ở Công viên Quốc gia Canyonlands ở Utah. Đây là hóa thạch rõ ràng, 300 triệu năm tuổi của bộ xương còn sót lại của loài xương sống, dài khoảng 1,5 feet (45,72 cm), với xương sống giống như động vật có vú, có trước hóa thạch khủng long lâu đời nhất khoảng 50 triệu năm. Theo giả thuyết tiến hóa của Darwin, loài động vật có vú có xương sống sớm nhất là quái thú Morgan (111), xuất hiện vào đầu kỷ Jura cách đây khoảng 205 triệu năm, nhưng chiều dài chỉ 10 cm, tương đương kích thước của một con chuột nhà. Làm thế nào mà một động vật có xương sống khổng lồ như vậy xuất hiện 300 triệu năm trước?
Theo giả thuyết tiến hóa, loài người “tiến hóa” từ từ từ thực vật, động vật, vượn người, người tinh khôn, Homo erectus, Homo sapiens, v.v., cho đến khi con người hiện đại (112) xuất hiện vào thời kỳ đồ đá mới khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Nhưng những khám phá địa chất, cho thấy rằng dấu chân của con người tồn tại xa hơn so với con người nguyên thủy, ngày càng khó hiểu. (113) (Xem “Chương 8” để biết thêm chi tiết)
Nói tóm lại, hiện tượng bùng nổ sự sống đã được chứng minh bằng các hóa thạch kỷ Cambri, thực tế là con người và hầu hết các loài động vật được sinh ra trên trái đất ở cùng độ tuổi được phát hiện bởi nghiên cứu về DNA ty thể, và thực tế là những điều đã đề cập ở trên động vật có xương sống khổng lồ xuất hiện cách đây 300 triệu năm, v.v., tạo thành đòn tấn công mạnh mẽ vào giả thuyết tiến hóa của Darwin.
Hóa thạch không những không ủng hộ giả thuyết tiến hóa mà dường như còn kể một câu chuyện khác về nguồn gốc sự sống, phiên bản này khác với phiên bản của Darwin về khái niệm “tiến hóa dần dần”.
Các loài sinh vật trên trái đất khó có thể tiến hóa đơn lẻ, tuyến tính và chậm chạp như Darwin đã nói. Phát hiện của các nhà khoa học luôn cho thấy rằng sự sống trên Trái đất có thể đã phát sinh theo một mô hình bùng nổ, lặp đi lặp lại nhiều lần.
Điều đó có nghĩa là, trong một thời gian rất dài, sau khi sự sống bùng nổ, nó đã bị tuyệt chủng do các sự kiện thảm khốc, sau đó nó được tái sinh, rồi lại tuyệt chủng và chu kỳ được lặp lại. Đây dường như là một lời giải thích hợp lý hơn cho các kết quả nghiên cứu khoa học khác nhau đã nêu ở trên.
(Còn tiếp)
Nhóm viết “Nhìn thấu thuyết tiến hóa”
(Bản quyền thuộc về Epoch Times và Nhóm viết, hoan nghênh đăng lại, không được thay đổi).
Epoch Times
Thanh Hà biên dịch
Tài liệu tham khảo:
75. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.
https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
76. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.
https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
77. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.
https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
78. Phillip E. Johnson. Darwin On Trial. Used with permission of Phillip E. Johnson and Regnery Gateway Publishing Co. Electronically Enhanced Text (c) Copyright 1993 World Library, Inc. Copyright 1991.
http://maxddl.org/Creation/Darwin%20On%20Trial.pdf
79. Paul A. Nelson. News and Commentary. Origins & Design 17:1. Colin Patterson Revisits His Famous Question about Evolution http://www.arn.org/docs/odesign/od171/colpat171.htm?fbclid=IwAR0jfWBP88HUDXwOJUrxu4hbTjO3hTzQPrcUYMjD-s3gm5lb007MCyl24kc
80. Colin Patterson, personal communication. Luther Sunderland, Darwin’s Enigma: Fossils and Other Problems, 4th edition, 1988, 88-90.
81. Groves, C.P. Wilson, D.E. & Reeder, D.M.. Mammal Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference (3rd ed.). Baltimore, Maryland: Johns Hopkins University Press. 2005. ISBN 978-0-8018-8221-0. LCCN 2005001870. OCLC 62265494. OL 3392515M. NLC 001238428.
http://www.departments.bucknell.edu/biology/resources/msw3/browse.asp?id=12100795
82. Linda J. Lowenstine, Rita McManamon, Karen A. Terio. Editor(s): Karen A. Terio, Denise McAloose, Judy St. Leger, Pathology of Wildlife and Zoo Animals. Academic Press, 2018, Pages 375-412, Chapter 15 – Apes. ISBN 9780128053065, https://doi.org/10.1016/B978-0-12-805306-5.00015-8.
83. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.
https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012; https://sci-hub.st/10.1097/00000478-197706000-00012
84. Walker, J., Clinnick, D., & White, M. (2021). We Are Not Alone: William King and the Naming of the Neanderthals. American Anthropologist, 123(4), 805-818.
https://doi.org/10.1111/aman.13654
85. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.
https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
86. Krings, M., Stone, A., Schmitz, R. W., Krainitzki, H., Stoneking, M., & Pääbo, S. (1997). Neandertal DNA sequences and the origin of modern humans. Cell, 90(1), 19–30.
https://www.cell.com/cell/fulltext/S0092-8674(00)80310-4?_returnURL=https%3A%2F%2Flinkinghub.elsevier.com%2Fretrieve%2Fpii%2FS0092867400803104%3Fshowall%3Dtrue
87. Krings, M., Geisert, H., Schmitz, R. W., Krainitzki, H., & Pääbo, S. (1999). DNA sequence of the mitochondrial hypervariable region II from the neandertal type specimen. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 96(10), 5581–5585.
https://doi.org/10.1073/pnas.96.10.5581
88. Benjamin Vernot Joshua M. Akey ,Resurrecting Surviving Neandertal Lineages from Modern Human Genomes.Science 343,1017-1021(2014).
DOI:10.1126/science.1245938; https://sci-hub.st/10.1126/science.1245938
89. Prüfer, K., Racimo, F., Patterson, N. et al. The complete genome sequence of a Neanderthal from the Altai Mountains. Nature 505, 43–49 (2014).
https://doi.org/10.1038/nature12886; https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1038/nature12886
90. Stern, J. T., Jr, & Susman, R. L. (1983). The locomotor anatomy of Australopithecus afarensis. American journal of physical anthropology, 60(3), 279–317.
https://doi.org/10.1002/ajpa.1330600302; https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1002/ajpa.1330600302
91. Sandra Blakeslee. May 3, 1983. The New York Times. DID LUCY ACTUALLY STAND ON HER OWN TWO FEET?
https://www.nytimes.com/1983/05/03/science/did-lucy-actually-stand-on-her-own-two-feet.html
92. Oxnard, C.E. Fossils, Teeth, and Sex: New Perspectives on Human Evolution, ISBN: 9780295963891. https://books.google.ch/books?id=8fdoQgAACAAJ. 1987, University of Washington Press. https://archive.org/details/fossilsteethsexn1987oxna/page/n9/mode/2up?q=australopithecines. Commented by David A. Plaisted. Problems with Lucy and Skull 1470 http://www.cs.unc.edu/~plaisted/ce/lucy.html
93. David A. Plaisted. Problems with Lucy and Skull 1470. http://www.cs.unc.edu/~plaisted/ce/lucy.html. Accessed on June 2 2023.
94. Green, D. J., & Alemseged, Z. (2012). Australopithecus afarensis scapular ontogeny, function, and the role of climbing in human evolution. Science (New York, N.Y.), 338(6106), 514–517.
https://doi.org/10.1126/science.1227123
95. Java Man. (2023, February 9). New World Encyclopedia, Retrieved 23:52, June 3, 2023 from https://www.newworldencyclopedia.org/p/index.php?title=Java_Man&oldid=1099870
96. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.
https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
97. Alonso, P. D., Milner, A. C., Ketcham, R. A., Cookson, M. J., & Rowe, T. B. (2004). The avian nature of the brain and inner ear of Archaeopteryx. Nature, 430(7000), 666–669.
https://doi.org/10.1038/nature02706; https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1038/nature02706.
98. Feduccia, A., & Tordoff, H. B. (1979). Feathers of Archaeopteryx: Asymmetric Vanes Indicate Aerodynamic Function. Science.
https://doi.org/1021; https://sci-hub.st/10.1126/science.203.4384.1021
99. Rowe, T., Ketcham, R. A., Denison, C., Colbert, M., Xu, X., & Currie, P. J. (2001). Forensic palaeontology: The Archaeoraptor forgery. Nature, 410(6828), 539–540.
https://doi.org/10.1038/35069145
100. Phillip E. Johnson. Darwin On Trial. Used with permission of Phillip E. Johnson and Regnery Gateway Publishing Co. Electronically Enhanced Text (c) Copyright 1993 World Library, Inc. Copyright 1991.
http://maxddl.org/Creation/Darwin%20On%20Trial.pdf
101. Cambrian Period. National Geographic.
https://www.nationalgeographic.com/science/article/cambrian
102. Rafferty, John P.. “Chengjiang fossil site”. Encyclopedia Britannica, 12 Nov. 2015, https://www.britannica.com/place/Chengjiang-fossil-site. Accessed 29 June 2023.
103. Stephen Jay Gould. American paleontologist.
https://www.britannica.com/biography/Stephen-Jay-Gould
104. N Hebert, P. D., Cywinska, A., & Ball, S. L. (2003). Biological identifications through DNA barcodes. Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences, 270(1512), 313-321.
https://doi.org/10.1098/rspb.2002.2218
105. M.Y. Stoeckle, D.S. Thaler. Why should mitochondria define species? Human Evolution. Vol. 33; n. 1-2 (1-30) – 2018. DOI: 10.14673/HE2018121037; https://phe.rockefeller.edu/wp-content/uploads/2018/12/Stoeckle-Thaler-Final-reduced-002.pdf
106. Marlowe Hood. Sweeping gene survey reveals new facets of evolution. MAY 28, 2018.
https://phys.org/news/2018-05-gene-survey-reveals-facets-evolution.html
107. Rockefeller University. Far from special: Humanity’s tiny DNA differences are ‘average’ in animal kingdom. MAY 21, 2018.
https://phys.org/news/2018-05-special-humanity-tiny-dna-differences.html
108. New Paper in Evolution Journal: Humans and Animals Are (Mostly) the Same Age? Evolution News. June 8, 2018, 2:00 PM
https://evolutionnews.org/2018/06/humans-and-animals-are-mostly-the-same-age/
109. Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “catastrophism”. Encyclopedia Britannica, 24 Jun. 2013, https://www.britannica.com/science/catastrophism-geology. Accessed 8 May 2023.
110. Amy Joi O’Donoghue. Why this 300 million-year-old fossil discovered in Utah has the paleontology world buzzing? Rare creature found in Utah’s Canyonlands National Park. Nov 8, 2021, 8:24pm CEST.
https://www.deseret.com/utah/2021/11/8/22770397/rare-fossil-canyonlands-national-park-petrified-forest-paleontology-discovery-reptile-mammal
111. Polly, Paul David. “Morganucodon”. Encyclopedia Britannica, 12 Oct. 2018, https://www.britannica.com/animal/Morganucodon. Accessed 29 June 2023.
112. Tattersall, Ian. “Homo sapiens”. Encyclopedia Britannica, 16 May. 2023, https://www.britannica.com/topic/Homo-sapiens. Accessed 4 June 2023.
113. McNutt, E. J., Hatala, K. G., Miller, C., Adams, J., Casana, J., Deane, A. S., Dominy, N. J., Fabian, K., Fannin, L. D., Gaughan, S., Gill, S. V., Gurtu, J., Gustafson, E., Hill, A. C., Johnson, C., Kallindo, S., Kilham, B., Kilham, P., Kim, E., DeSilva, J. M. (2021). Footprint evidence of early hominin locomotor diversity at Laetoli, Tanzania. Nature, 600(7889), 468-471.
https://doi.org/10.1038/s41586-021-04187-7
NTD Việt Nam