Câu chuyện thiền sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích đã trở thành cái nghi án hàng trăm năm khiến thế nhân không ngớt đàm luận. Sự thực lịch sử ra sao, chúng ta khó mà biết được. Danh sĩ Phạm Đình Hổ trong “Vũ trung tùy bút” có gián tiếp xác nhận rằng thực tế đã từng có nàng Điểm Bích. Còn việc xảy ra với Huyền Quang ra sao thì không ai biết.
Lời tựa:
Trong Sấm ký, bản quốc ngữ Hương Sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mở đầu bằng câu thơ: “Nước Nam thường có thánh tài” như một lời khẳng định nước Nam là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Thành ngữ Trung Hoa có câu “Sơn Tiên Thủy Long” tạm hiểu là: “núi không cần cao vẫn có tiên ở nên danh nổi, nước không vì sâu vẫn có rồng nằm nên hóa linh”, cũng có thể dùng để nói về nước Nam ta vậy.
Bởi thế, nội dung của loạt bài này sẽ là về những Thần tích nước Nam. Đây là những câu chuyện dẫu có lúc chẳng phải chính sử, mà dựa trên huyền sử, dã sử… vẫn bàng bạc sắc màu của văn hóa thần truyền. Dẫu là tác phẩm phóng tác, đôi lúc hư thực khó phân… vẫn thấm đượm tinh thần và hào khí nước Nam.
Đó vẫn là những tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt và nhân loại nói chung, mà chúng tôi muốn góp phần nhỏ bé để truyền tải và lưu giữ.
Kỳ 1: Thánh Nguyễn Minh Không, Hồ Tây và con trâu vàng phương Bắc
Kỳ 2: Trận thư hùng cuối cùng của Hai Bà Trưng
Kỳ 3: Cuộc đấu với Cao Biền hay câu chuyện về vị Thành hoàng Thăng Long
Kỳ 4: Chử Đồng Tử – vị Thánh bất tử và mối tình huyền thoại với công chúa Tiên Dung
Kỳ 5: Tản Viên Sơn Thánh – vị thượng đẳng linh Thần, thủy tổ của nước Nam
Kỳ 6: Thánh Gióng – chú bé ngơ ngẩn hay Thần nhân giáng thế?
Kỳ 7: Lai lịch bí ẩn của Thanh Giang sứ giả – vị Thần bảo hộ nước Nam
Kỳ 8: Cuộc chiến với Quỷ Xương Cuồng – yêu quái mạnh nhất nước Nam [Radio]
Kỳ 9: Chuyện đức Lạc Long Quân diệt ngư tinh [Radio]
Kỳ 10: Lạc Long Quân đại chiến Cửu vĩ hồ [Radio]
Kỳ 11: Người thầy nhân đức và học trò Thủy thần
Kỳ 12: Huyền Quang – tam tổ thiền Trúc Lâm và kỳ án với nàng Điểm Bích
Tuổi thơ khốn khó của kẻ sĩ thông minh đã sớm chán cõi tục
Ở hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (1) thời Trần, có đôi vợ chồng nghèo hiền lành là Tuệ Tổ – Lê Thị. Lê Thị tuổi đã 30 mà vẫn chưa có con nên bà hay lên chùa Ngọc Hoàng cầu tự. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy “các tòa trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: ‘Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa.'” (2). Năm ấy Lê Thị sinh Lý Đạo Tái.
Đạo Tái lúc sinh ra, dung mạo dị thường, nhưng rất mực thông minh sáng dạ, tâm hồn lại nhạy cảm lân mẫn. Ngặt nỗi nhà nghèo quá, vẻ ngoài lại không ưa nhìn, nên hay bị người đời hắt hủi, ghẻ lạnh. Đạo Tái tuổi đã lớn, nhưng vì cha mẹ chàng đi hỏi vợ cho chàng ở nhiều nơi mà vẫn không thành, nên chàng lặng lẽ vùi đầu vào chuyện đèn sách.
Đến năm 20 tuổi, Đạo Tái đỗ kỳ thi Hương, rồi năm sau đỗ đầu thi Hội – đệ nhất giáp tiến sĩ (tức trạng nguyên). Lúc ấy, người ta mới thi nhau đánh tiếng gả con gái cho tân khoa Trạng Nguyên, thậm chí có cả những đám nhất mực danh giá. Nhưng lúc này chàng từ chối hết thảy. Đôi lúc chàng thở dài, ngao ngán cho tình đời ấm lạnh mà ngâm câu thơ:
“Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng, trăm nghìn nhân duyên”
Và từ lúc bấy giờ Lý Đạo Tái đọc thêm cả kinh Phật, có ý muốn tìm con đường thoát khỏi nỗi khổ trần ai.
Nối lại duyên xưa với Phật môn
Nhưng chữ hiếu chưa tròn, ơn vua chưa báo, chưa thể xuất gia nên Lý Đạo Tái vẫn ra làm quan. Suốt 30 năm tận tụy, ông làm quan nơi viện Nội Hàn của triều đình, có lúc phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc bởi ông kiến văn quảng bác, giỏi đối đáp, ứng xử. Năm tháng qua đi, cha mẹ Đạo Tái đã nối nhau khuất núi, nhưng ông vẫn chưa thành gia thất.
Lại nói nhà Trần vốn có truyền thống trọng đạo Phật, nhất là từ khi vua Trần Nhân Tông làm tổ sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Một hôm, Đạo Tái theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh. Nghe xong ông như bừng tỉnh, nhớ lại “duyên xưa”, than rằng:
… Phú quý vinh hoa thích thú
Đáng lo như lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hè
Sao ta có thể lưu luyến lâu dài được?…
Bèn xin vua Anh Tông được xuất gia thụ giáo.
Nhà vua tiếc nuối khi mất một năng thần, nhưng sau vài lần Đạo Tái dâng biểu từ quan, cuối cùng vua Anh Tông cũng chấp thuận. Khi ông xuất gia đã 51 tuổi (năm 1305), buổi đầu ông đến tu học với thiền sư Bảo Phác chùa Lễ Vĩnh, lấy pháp danh là Huyền Quang. Sau ông theo Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm là Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông khoảng 2 năm để giúp việc biên soạn kinh sách, được ngài hài lòng khen: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn, khảo đính thì không thể thêm bớt được một chữ nào nữa”.
Trước khi Sơ Tổ Trúc Lâm viên tịch, truyền y bát cho thiền sư Pháp Loa làm nhị tổ, giao Huyền Quang cho Pháp Loa hướng dẫn. Huyền Quang trở thành đệ tử của người thầy trẻ hơn mình đến 30 tuổi. Sau đó ông được cử về làm trụ trì chùa Vân Yên trên đỉnh núi Yên Tử, nơi phát tích dòng thiền Trúc Lâm (nay là chùa Hoa Yên). Khi chữ trung chữ hiếu đã vẹn toàn, Huyền Quang rũ bỏ quan trường nhiều bon chen danh lợi, từ nay dường như toàn tâm toàn ý đi trên con đường giải thoát:
Buông niềm trần tục
Náu tới Hoa Yên
Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy
Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới
Giày thong thả dạo khắp sơn xuyên…
Niết được tính ta nên Bụt thật
Ngại chi non nước cảnh đường xa
(Phú vịnh chùa Hoa Yên – Nguyễn Lang dịch)
Cao tăng có tâm hồn thi sĩ
Huyền Quang bản tính thanh cao, tuy chán ngán danh lợi phù vân, lòng người bạc bẽo, song tâm hồn vẫn rung cảm với nước chảy mây trôi, trăng thanh gió mát. Thân làm trụ trì chùa Hoa Yên, nhưng ông khiêm nhường chỉ nhận làm người “giúp nhà chùa đánh chuông và nhặt hoa rơi”:
Bên đình Đạm Thuỷ cỏ đua tươi,
Mưa tạnh non quang, bóng ngả dài.
Tiện lối xe vua vào vãng Phật,
Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi.
(Đề Đạm Thủy Tự – Huệ Chi dịch)
Ông nhẹ lòng vì từ nay được dứt mùi tục lụy, hòa mình vào thiên nhiên trong sạch:
Quanh quất cây leo, núi chất chồng,
Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng.
Từ nay niệm tục thôi vương vấn,
Chiếc gối an nhàn trước gió trong.
(Đề động hiên đàn việt giả sơn – Huệ Chi dịch)
Từ chốn thiền môn thanh tịnh, ông lấy làm thương cho nhân thế tuy mắt mở mà vẫn mê man không tỉnh:
Mưa tạnh, khe núi tĩnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng
(Ngọ thuỵ – Nguyễn Bang dịch)
Và vẫn đau trước nỗi đau sinh mệnh, như trong thi phẩm “Ai phù lỗ – thương tên giặc bị bắt”
Lấy máu đề thư, muốn gửi nhau
Cô đơn chiếc nhạn vút mây sầu
Bao nhà ngóng nguyệt đêm nay nhỉ,
Hai chốn cách vời một nỗi đau
(Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Viện triết học)
…
Dường như trong Huyền Quang không hoàn toàn là tâm thái của một thiền giả vốn chỉ có một chữ “Không”, vẫn còn đâu đó chút ưu thời mẫn thế của nhà Nho yêu nước; lại có vài phần tâm trạng muốn tiêu dao lánh đời của Lão-Trang, vui thú điền viên như Đào Tiềm thuở trước, Nguyễn Khuyến sau này; và nhất là sự rung cảm trước cái đẹp thanh khiết. Có lẽ rõ nét nhất là trong vài dòng tự bạch ở bài Sơn Vũ:
“Thôi đã theo thiền lòng lặng tắt
Nỉ non tiếng dế vẫn vì ai?…”
(Sơn Vũ – Huệ Chi dịch)
Thử thách đường tu khi hương sắc hồng trần lọt vào chốn thiền môn
Theo sách Tổ gia thực lục, một hôm vua Trần Anh Tông hỏi các quan hầu cùng đạo tăng: “Huyền Quang lão sư sống như tấm gương trong không mờ bụi, thế là dồn lấp tình dục hay không có dục tình?” Nho thần Mạc Đĩnh Chi tâu: “Vẽ hổ chỉ vẽ ngoài da, khó vẽ trong xương, xin hãy cho thử mới biết…”. Vua nghe theo, thế là một kế hoạch được bày ra…
Một buổi chiều tà, Huyền Quang ngồi đọc kinh tại thiền trai, bỗng gió nổi xao xác cả rặng trúc trước nhà, Huyền Quang ngẩng đầu nhìn, chợt thấy một chú tiểu hớt hải chạy vào báo:
– Bạch thầy, có một cô gái bị cướp đuổi vừa chạy vừa kêu. Cứu người như cứu hỏa, con đã vô phép mở cổng chùa đưa cô ấy vào đây. Hiện giờ cô ấy đang ở ngoài sân chùa.
Huyền Quang nghiêm mặt nhìn chú tiểu nói:
– Chùa ta không chứa chấp đàn bà con gái, con sao không biết quy định này?
Nhưng ông vẫn đứng dậy, theo chân chú tiểu ra ngoài sân chính. Trước mặt ông là một giai nhân thiên kiều bá mị, nhưng thần sắc hốt hoảng, xống áo rách bươm, lệ rơi lã chã. Cô kể lại sự tình, rồi xin tá túc lại nhà chùa cho hết đêm nay.
Huyền Quang năm ấy đã là một ông lão ngoài sáu mươi. Trải qua những năm tháng tuổi trẻ gian nan, thấu tỏ tình đời ấm lạnh, sớm đã chán ngán hồng trần, chẳng còn thiết tha gì ái ân nam nữ. Vả lại, ông đã từng được mai mối ở rất nhiều đám danh gia vọng tộc, có nhan sắc nào mà chưa từng được thấy? Nhưng trước mắt ông lúc này, không phải một giai nhân, mà chỉ có nạn nhân. Có câu: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Bên ngoài, trời đã tối, cô biết đi đâu bây giờ? Ông thở dài, khẽ bảo chú tiểu sửa soạn phòng khách cho cô gái ở tạm.
Nhưng đến sáng hôm sau, có lẽ mệt mỏi vì cuộc truy đuổi, cô gái ốm nặng, nằm liệt giường. Trông thế, ai nỡ đuổi cô ra khỏi chùa, ngược lại hai thầy trò Huyền Quang phải thay nhau chăm sóc người ốm, thế là cuộc thanh tu đã bị quấy nhiễu.
Huyền Quang hỏi thăm gia cảnh, cô gái kể rằng cha cô làm quan huyện đi thu thuế, nhưng không may đã bị cướp mất sạch tiền thuế của triều đình. Gia sản đã bán hết nhưng chỉ bù được một nửa, nửa còn lại chỉ còn có cách mấy người trong nhà chia nhau đi các nơi để quyên góp cho đủ. Cô gái vừa kể, lệ vừa rơi đầm đìa ướt áo, trong sắc đẹp lộng lẫy tỏ bày sự đáng thương vô hạn. Càng nói chuyện, Huyền Quang càng thấy đây là một nữ nhân thông tuệ, có thể ứng đối tinh tế, lại có lòng nhân ái. Đúng là bậc nữ lưu “sắc đành đòi một tài đành họa hai, thông minh vốn sẵn tính trời…” mà trong đời ông chưa từng gặp được.
Huyền Quang đâu biết, cô gái ấy chính là cung nữ Điểm Bích, người cung nữ xinh đẹp thông minh, nổi tiếng “thần đồng” của vua Trần Anh Tông. Điểm Bích làu thông kinh sử, văn chương thi phú nức tiếng chốn cung đình. Vua Trần Anh Tông cho vời Điểm Bích vào giao cho sứ mệnh thử lòng bậc chân tu Huyền Quang. Nếu Điểm Bích có thể mang về một nén vàng vua từng ban cho Huyền Quang, thì đó là bằng chứng Huyền Quang chỉ là kẻ giả tu.
Mấy ngày trôi qua, cô gái dần dần hồi phục. Huyền Quang mừng rỡ vì cô sắp rời chùa, và ông có thể trở lại công cuộc thanh tu. Nhưng hình như trong vị cao tăng có chút gì như lòng quyến luyến, không phải với sắc đẹp nữ nhân mà là với một tâm hồn tri kỷ, một trí tuệ có thể cùng ông cao đàm khoát luận. Vốn là người thông minh, ông thừa hiểu rằng đó vẫn là chỗ lậu của kẻ tu hành vốn chưa đoạn tuyệt được với đời sống thế nhân, nhưng hình như trí biết vậy mà lòng vẫn có gì tiếc nuối!!…
Đêm ấy trăng sáng lắm, vị cao tăng thao thức chưa ngủ, nên trở mình ngồi dậy khoác tăng phục bước ra sân. Ngoài sân, những ngọn trúc đang đu đưa trong gió, bóng đổ nghiêng nghiêng xuống sân chùa trông như mái đầu đang lắc qua lắc lại nhè nhẹ. Ánh trăng chiếu trên mặt nước lung linh sáng của chiếc ao sen ngoài cổng chùa. Hồn thơ của thi nhân trong tăng phục khẽ ngâm nga (3):
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,
Mâu Thích Ca nào thử hữu tình
Bỗng ở phòng khách, có tiếng rên đau đớn. Huyền Quang định đi đánh thức chú tiểu xem có chuyện gì, nhưng thương người học trò cả ngày đã vất vả, ông liền thắp đèn, tự mình đến gian phòng thăm bệnh. Cô gái đã thức dậy, trông không còn vẻ yếu đuối nữa. Huyền Quang hỏi han đôi câu, thấy không có gì đáng ngại bèn định ra về. Nhưng cô gái dường như đã trở thành một người khác hẳn, không còn vẻ đoan trang thùy mị thường ngày, mà lại chèo kéo, đầu mày cuối mắt lả lơi.
Huyền Quang sực tỉnh, nghiêm giọng:
– Nữ thí chủ nên tự trọng thân phận, nơi đây là chốn thanh tu, việc lưu lại của nữ thí chủ chỉ là vạn bất đắc dĩ. Ta thấy nàng đã khỏe, ngày mai có thể xuất hành. Ta còn 10 nén vàng chưa dùng đến, ngày mai sẽ gói bọc để ở đầu giường, nàng hãy dùng nó để cứu cha.
Dứt lời, Huyền Quang chân bước nhanh về phía tăng phòng.
10 nén vàng mà ông nói đến, là vàng vua Trần Anh Tông ban cho để đền công khó nhọc cho những lần trẩy kinh làm Pháp sự. Huyền Quang chẳng bao giờ cần dùng đến, nhưng ơn vua lộc nước, ông không tiện chối từ. Tuy vậy, vì chẳng bao giờ cần đến nó, ông không biết rằng 10 nén vàng này được chế tạo với đặc điểm riêng biệt của hoàng gia…
Thần tích triển hiện minh tỏ nỗi oan thiên cổ của bậc chân tu
Sáng hôm sau, cô gái đã biến mất cùng với túi đựng vàng. Rồi một hôm, có chiếu chỉ của vua Trần Anh Tông vời Huyền Quang về kinh sư làm chủ lễ trong đại hội Vô già. Huyền Quang đâu biết rằng, Điểm Bích đã giao nộp túi vàng làm bằng chứng, lại bịa đặt rằng Huyền Quang đã giữ nàng ở lại qua đêm, đồng thời làm thơ tặng mình trước khi phá giới. Trần Anh Tông lắc đầu than: “Việc này nếu quả có thực thì chính ta là kẻ thả lưới bắt chim, còn nếu không thì cũng không khỏi gieo sự nghi hoặc…”
Khi vừa bước chân lên lễ đài, Huyền Quang giật mình thấy xung quanh toàn là lụa màu vàng lòa xòa quệt cả xuống đất. Lại nữa, thay vì cỗ chay như thường lệ, là ê hề các loại món cá thịt. Người thông minh bác học như Huyền Quang làm gì chẳng hiểu, nhà vua ám chỉ mình đã phạm giới, đã không còn chay tịnh. Lụa màu vàng, tức là “Hoàng Quyến”. “Hoàng Quyến” là nói lái của “Huyền Quáng”, tức là “Huyền Quang” thêm dấu sắc. Ý nói Huyền Quang phạm sắc trở nên u mê quáng gà.
Nhưng ông vẫn điềm tĩnh bước lên đài lễ khấn Trời Phật rằng, nếu ông bất chính phá giới, sẽ bị đày xuống âm ti địa ngục, còn nếu không thì xin cho lụa vàng bay đi, cỗ mặn hóa chay cả.
Dứt lời khấn, giông gió nổi lên ầm ầm, đèn nến tắt phụt, ngay trước mắt mọi người, lụa vàng bị cuốn đi hết sạch, rồi cát lở đá bay, đất trời mờ mịt. Đến khi giông bão tan đi, đèn nến được thắp sáng trở lại, tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi toàn bộ cỗ mặn đã biến thành cỗ chay. Còn chính thiền sư Huyền Quang vẫn uy nghi đứng sững giữa đàn tràng tụng kinh niệm Phật, tưởng như Bồ Tát hạ phàm. Xong đâu đó, ông mới rời khỏi đàn tràng bước xuống.
Thấy đạo hạnh của Huyền Quang thông thấu cả thiên địa, ai nấy đều thất sắc. Vua tạ lỗi với thiền sư, đồng thời hạ lệnh xử trảm Điểm Bích. Nhưng Huyền Quang tâu xin vua tha tội chết cho Điểm Bích. Cuối cùng vua Anh Tông phạt nàng phải làm kẻ hầu hạ nơi chùa Cảnh Linh trong cung. Từ đó, ông càng được vua kính trọng, gọi tôn là Tự Pháp (Nối Đạo).
Năm ông 63 tuổi (tức năm 1317), Huyền Quang được nhị tổ Pháp Loa trao y bát và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa viên tịch (năm 1330), ông kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm. Bốn năm sau, tức là năm 1334, ông viên tịch, hưởng dương thọ 80 tuổi.
Cảm nghĩ từ truyền thuyết dân gian về Huyền Quang và ĐIểm Bích
Câu chuyện thiền sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích đã trở thành cái nghi án hàng trăm năm khiến thế nhân không ngớt đàm luận. Sự thực lịch sử ra sao, chúng ta khó mà biết được. Danh sĩ Phạm Đình Hổ trong “Vũ trung tùy bút” có gián tiếp xác nhận rằng thực tế đã từng có nàng Điểm Bích. Còn việc xảy ra với Huyền Quang ra sao thì không ai biết.
Vì vậy, câu chuyện phóng tác kỳ này cũng chỉ là chút lý giải cá nhân xét từ văn hóa tu luyện, mượn một truyền thuyết dân gian về thiền sư Huyền Quang mà truyền tải chút đạo lý.
Trong giới tu luyện, sắc dục là một tử quan. Huyền Quang có phạm lỗi này không? Một ông già ngoài sáu mươi tuổi khí huyết đã suy, thông thường không phải là một đối tượng đam mê sắc dục. Vả lại Huyền Quang thời trẻ sớm đã chán ngán tình đời, chối bỏ ái ân, bỏ danh xả lợi để xuất gia, cớ chi đến khi về già lại phạm lỗi ấy? Do đó mà nói, kết tội Huyền Quang phạm sắc dục dường như không có căn cứ.
Nhưng chối bỏ sắc dục không có nghĩa là tâm hồn biến thành gỗ đá, không còn rung động với cái đẹp của thiên nhiên, vũ trụ, với những tâm hồn trong sáng, thuần khiết. Người chân tu tuyệt không phải là người không còn chút mỹ cảm nào. Thậm chí, lấy tâm tục đối đãi với vẻ đẹp thanh khiết còn đáng chê cười nữa, như trong thi phẩm “Cúc hoa bài 4” của ông:
Thu về, móc nhẹ, cúc đơm bông
Gió mát trăng thanh dịu nỗi lòng
Vẻ đẹp tinh khôi người chẳng hiểu
Bẻ về cài tóc, đáng cười không?
(Băng Thanh dịch)
Chỉ là nếu quá đi mà thành cực đoan, đến lúc cần thăng hoa lên cảnh giới cao hơn lại bám chấp, tơ vương vào cảnh, vào người, vào cõi thế… thì cũng khó thành đạo, chính là phải “thương mà lòng chẳng vấn vương”.
Vậy cớ sao mà có câu chuyện Huyền Quang và nàng Điểm Bích? Phải chăng là vì sự việc ông từ chối những nơi hôn phối giàu sang từ thời trẻ khiến kết thành oán khí? Hay việc ông được Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông ưu ái phong làm trụ trì, rồi sau được Pháp Loa trao y bát trở thành tam tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử khiến có bạn tu ghen ghét? Hay những tranh chấp chốn cung đình từ đám Nho sĩ đã có sự bài Phật trọng Nho? Cần biết rằng, đến đời vua Trần Anh Tông thì Thiền phái Trúc Lâm đã bắt đầu suy (4), còn đám Nho thần lại thịnh (5). Trong đám Nho thần ấy có thể có người ghen tị với sự sủng ái của vua Anh Tông dành cho Lý Đạo Tái, nên buông lời dèm pha về sư Huyền Quang.
Càng về sau này, con người ngày càng trở nên không tin Thần Phật, coi rẻ Thần tích, dẫn đến nghi ngờ chuyện cỗ mặn thành chay chỉ là sự dàn dựng. Trong thực tế có thể có chuyện đó hoặc không, nhưng Thần tích thì nhất quyết không phải chuyện thêu dệt, vì tâm thành có thể cảm động cả Trời Đất. Còn phải xem lòng tin vào Thần Phật của người ta đến được mức nào thì Thần tích mới triển hiện.
Riêng với Huyền Quang, thi phẩm kết bài sau đây đã phần nào nói lên quan niệm về tu hành của ông:
Củi hết lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta cứ mặc tình…
(Địa lô tức sự – Nguyễn Lang dịch)
Nguyên Phong
Tài liệu tham khảo:
Loạt bài có tham khảo những tài liệu văn sử có giá trị của nước Nam như: “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện U Linh”, “Thiền uyển tập anh”, “Truyền kỳ mạn lục”, “Việt sử tiêu án”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục”… và cả sử Trung Hoa trong cuốn “Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa” của học giả Cao Tự Thanh, sử Việt từ góc nhìn Trung Hoa trong “An Nam chí lược” của Lê Tắc… và cả trang Wikipedia.
Bài viết kỳ này có tham khảo thêm tác phẩm: “Vũ trung tùy bút” của danh sĩ Phạm Đình Hổ và một số căn cứ lịch sử trong bài viết “Góp một số suy nghĩ về thiền sư, thi sĩ Huyền Quang” của tác giả Bùi Thụy Đào Nguyên.
Chú thích:
(1): nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
(2): theo “Tam Tổ thực lục”
(3): Bài thơ “Giai nhân tức sự” được cho là do Huyền Quang làm
(4): “Sang thế kỷ 14, sau thời kỳ hưng thịnh của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử (1298-1344), Phật giáo có dấu hiệu suy thoái. Các vị tổ qua đời và không có các môn đệ xuất sắc kế tục” – theo sách “Việt Nam văn minh sử” của Lê Văn Siêu (2006), trang 698
(5): vua Trần Anh Tông đã từng được một nho sĩ là Đoàn Nhữ Hài cứu nguy khỏi sự trách phạt của thượng hoàng Trần Nhân Tông.
NTD Việt Nam