Thương Ưởng nghịch thiên phản đạo, tự đào hố chôn mình. (Tranh Thanh Phong – NTDVN)
Thương Ưởng nghịch thiên phản đạo, tự đào hố chôn mình
Cái chết của Thương Ưởng có thể nói là tự mình gây ra, tự đào hố chôn mình, là một kẻ bạc bẽo vô ơn, độc ác và tàn bạo, tuy làm cho nước Tần giàu có và quyền lực một thời, nhưng lại giết người vô tội một cách bừa bãi, đi ngược lại đạo Trời, cuối cùng phải gánh chịu đại họa diệt tộc. Điều mỉa mai nhất là việc ông ta tự đào hố chôn mình, bị chính luật lệ ông ta đặt ra khiến ông không có chốn nương thân trên đường trốn chạy; vì đã xúc phạm nước Ngụy lừa bạn chiếm Tây Hà, nên ông ta bị nước Ngụy từ chối; cả gia tộc bị tiêu diệt vì phản loạn, tất cả những việc ác ông ta đã làm, lần lượt báo ứng giáng xuống.
Khi một người sống trên đời, điều quan trọng nhất là làm người như thế nào, chứ không phải là làm lên sự nghiệp gì. Thưởng Ưởng là kẻ thất bại trong việc làm người, có bốn chỗ thất bại.
Điểm đầu tiên là Thương Ưởng rất ngoan cố, không nghe lời khuyên của bất kỳ ai dành cho mình, kể cả những gì Triệu Lương đã nói rất rõ ràng sau này. Người ngoài nhìn thoáng qua có thể biết Thái tử sắp lên ngôi, vua sắp chết vì bệnh tật, mà vẫn còn tham lam của cải của đất Thương Vu, không biết rằng tai họa sắp giáng xuống hay sao? Nhưng Thương Ưởng không biết.
Ông ấy không biết lắng nghe, lại bướng bỉnh đến mức không nghe lời khuyên của ai. Đây là điểm thất bại đầu tiên.
Thứ hai là, Thương Ưởng làm việc cạn tình không để lại đường lui. Biết sau này Thái tử sẽ làm vua, sao có thể xúc phạm Thái tử đến mức đó? Một thầy dạy của Thái tử đã bị cắt mũi và một thầy khác bị xăm mặt. Ông ta không tính đến bất kỳ hậu quả nào và không có chỗ để rút lui.
Thứ ba, Thương Ưởng không có bạn bè. Khi bị hành quyết và truy nã, không ai nói một lời tốt đẹp nào về ông ta. Người Tần vừa nghe tin Thương Ưởng có lệnh bắt, liền ra hết khỏi thành xắn tay áo lên đi bắt Thương Ưởng. Trong bộ “Chiến Quốc sách” tập ba quyển ba có câu: “Thương Quân trở về, xe của Huệ Vương phanh thây ông ta, nhưng người Tần không hề tỏ ra thương xót”. Không ai ở nước Tần yêu mến ông ta, bởi vì ông ta đối xử với dân chúng ở nước Tần như thể họ là những kẻ ngốc, mặc sức bóc lột và bắt họ làm nô lệ.
Thứ tư, Thương Ưởng chỉ thấy công lao mà không nhìn đạo đức. Ông ta không hiểu sự khác biệt giữa công lao và đạo đức. Mặc dù ông cũng chiếm được Tây Hà, và Bách Lý Hề cũng chiếm được Tây Hà, nhưng phương pháp họ sử dụng lại khác nhau. Những gì ông ta sử dụng là bá đạo dối lừa, trong khi Bách Lý Hề lại sử dụng vương đạo đường đường chính chính. Vậy sự khác biệt giữa vương đạo và bá đạo là gì?
Chúng ta biết rằng Nho gia giảng về vương đạo. Xã hội lý tưởng của Nho giáo là “nội Thánh ngoại vương”, tức là làm vua thì nội tâm có cảnh giới tu dưỡng của Thánh nhân, còn bề ngoài thì là vua như Nghiêu, Thuấn, Thành Thang Vương, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương là những vị điển hình, bên trong là bậc Thánh nhân, bên ngoài là vua. Tại đây quyền lực chính trị và tầm cao đạo đức đã được thống nhất, vừa là vị vua quyền lực nhất vừa là một vị Thánh. Đây là xã hội lý tưởng của Nho giáo. Điều này rất giống với “Vua triết gia” mà nhà tiên tri Hy Lạp cổ đại Socrates đã nói đến.
Chúng ta biết rằng trong cuốn “Quốc gia lý tưởng”, Plato đã ghi lại cuộc đối thoại giữa Socrates và Glaucon. Socrates nói rằng trừ khi các triết gia trở thành vua của đất nước chúng ta, hoặc những nhân vật mà tôi hiện nay gọi là vua hoặc người thống trị, có thể nghiêm túc theo đuổi trí tuệ, làm quyền lực chính trị và trí tuệ trở thành một, thì không có cách nào khác có thể mang lại hạnh phúc cho cá nhân cùng dân chúng. Nói cách khác, điều Socrates chủ trương là sự thống nhất giữa quyền lực chính trị và trí tuệ. Vị vua triết gia mà Socrates nói đến không phải là những triết gia ngày nay chúng ta gọi lên làm vua. Trong con mắt Socrates, các triết gia là những người có đại trí tuệ, những người đã nhìn thấu các quy luật của vũ trụ và họ là những người hiểu thấu mọi bí ẩn của thế giới.
Trong mắt của Socrates, những người bình thường trên thế giới là “tù nhân trong hang”, giống như một người bị trói trong hang, quay mặt vào vách hang và chỉ có thể nhìn thấy bên trong hang. Phía sau có một ngọn nến, ‘tù nhân’ ấy chỉ có thể nhìn thấy trên tường bóng người nhảy múa, lại không biết phía sau nguồn sáng được bố trí như thế nào, cũng không biết bên ngoài hang còn có thế giới tự do rộng lớn bao la.
Còn những triết gia đó là những người có thể rời khỏi hang động và đi ra ngoài nhìn thế giới tự do, đồng thời, những triết gia này cũng có thể quay trở lại hang động và nói với những tù nhân trong hang động về thế giới tự do bên ngoài và hướng dẫn họ đi theo, ra ngoài nhìn ngắm thế giới.
Điều này rất giống với Nho gia, người vừa là một vị Thánh vừa là một vị vua, dùng Vương đạo để giáo hóa dân chúng và dạy những quan niệm đạo đức của Nho gia cho người dân, để dân chúng cũng có cơ hội trở thành giống như Thánh nhân. Nhưng sau thời Xuân Thu, Trung Quốc bước vào thời kỳ lễ băng nhạc hoại, đây là điều Khổng Tử đã giảng.
Trước thời Xuân Thu, Ngũ Đế, Tam Vương đều là các vị nội Thánh ngoại vương nên cách trị nước có đạo đức, lễ nghĩa đã ăn sâu vào lòng dân, tới thời Xuân Thu, nghi lễ sụp đổ, âm nhạc bại hoại, đạo lớn biến mất, Trung Quốc bước vào kỷ nguyên bạo lực tranh giành. Tới thời Chiến Quốc, các quốc gia đều theo đuổi mục đích thôn tính, đạo đức và lễ nghi đều bị gạt sang một bên. Các nước đều nghĩ cách làm sao cho binh mạnh nước giàu nhằm thôn tính nước láng giềng. Điều này đã tạo đất dụng võ cho sự xuất hiện của các tư tưởng Pháp gia.
Thương Ưởng so sánh mình với Bách Lý Hề bởi vì ông không hiểu được sự khác biệt giữa Vương đạo và Bá đạo. Hôm nay chúng ta nói về sự khác biệt giữa Vương đạo và Bá đạo nên cũng sẽ kể bốn câu chuyện về Bách Lý Hề.
Câu chuyện đầu tiên: “Mượn đường diệt Quắc”
Bách Lý Hề là người nước Sở, quê quán ở Uyển, nay là thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam. Bách Lý Hề khi còn trẻ rất nghèo, mãi đến tuổi 30 ông mới lấy vợ tên Đỗ Thị và sinh được một đứa con. Sau này, nhà quá nghèo nên vợ ông bảo ông ra ngoài xem có cơ hội nào dùng tài năng của mình làm quan hay không. Ở nhà không có gì ăn nên vợ thịt con gà mái đẻ trứng duy nhất, không có củi, vợ rút then cửa làm củi đun, hầm gà, để Bách Lý Hề ăn no một bữa tiễn chân.
Bách Lý Hề đầu tiên đến nước Tống, sau đó đến nước Tề. Vì không có ai tiến cử nên ông lâm cảnh nghèo khó phải đi xin ăn ở nước Tề. Lúc này ông gặp một người tên là Kiển Thúc, hai người đàm đạo hồi lâu, Kiển Thúc thấy rằng Bách Lý Hề là một người rất tài năng nên muốn giúp đỡ Bách Lý Hề. Nhưng Kiển Thúc cũng rất nghèo nên Bách Lý Hề đã phải chăn bò cho người khác ở quê của Kiển Thúc. Ông giỏi chăn nuôi nên bò dê mập mạp. Về sau ông nghĩ, bậc đại trượng phu không thể sống như thế này, cần phải ra làm quan nên đã đến nước Ngu. Tài năng của ông được nước Ngu công nhận và ông trở thành Trung Đại Phu.
Nước Ngu là một nước rất nhỏ, giáp với nước Tấn. Đồng thời, có một quốc gia khác tên là Quắc cũng giáp Tấn. Lúc bấy giờ, vua nước Tấn tên là Tấn Hiến Công, Tấn Hiến Công muốn tiêu diệt cả Quắc và Ngu. Nhưng hai nước Ngu và Quắc lại hỗ trợ lẫn nhau.
Nếu tấn công nước Ngu, Quắc sẽ chi viện, tấn công Quắc thì Ngu chi viện, phải làm sao đây? Tấn Hiến Công nghĩ ra kế ly gián.
Tấn Hiến Công chuẩn bị nhiều ngựa đẹp và một viên ngọc quý để dâng cho vua Ngu, nói với vua nước Ngu rằng, muốn mượn đường của nước Ngu để chinh phạt nước Quắc, xin biếu ngài ngựa đẹp và ngọc quý làm tiền để mua đường. Vua nước Ngu rất tham lam, sau khi nhìn thấy ngựa và ngọc thì rất thích, sẵn sàng đồng ý. Nhưng vào thời điểm đó, quan đại phu Cung Chi Kỳ đã can gián vua Ngu.
Cung Chi Kỳ cho rằng mối quan hệ giữa hai nước Ngu-Quắc là mối quan hệ khăng khít như răng với môi, môi hở răng lạnh, thành ngữ này bắt nguồn từ đây. Nếu quân vương muốn phản bội nước Quắc, cho nước Tấn mượn đường, một khi Quắc bị tiêu diệt, e rằng chúng ta cũng tiêu vong, Tấn nhất định sẽ tiêu diệt nước Ngu ta.
Kết quả là vua nước Ngu không chịu nghe và đồng ý cho Tấn mượn đường. Sau khi nước Tấn tiêu diệt xong nước Quắc, khi quay trở lại thuận tay diệt luôn nước Ngu. Câu chuyện này là một kế trong “Ba mươi sáu kế” có tên là “Giả đồ diệt Quắc” của binh pháp Tôn Tử. Sự kiện này xảy ra vào năm 655 TCN.
Khi Bách Lý Hề làm đại phu ở nước Ngu, Kiển Thúc đã cố gắng khuyên can, nói rằng trong thời loạn này, có rất nhiều quốc gia, cần phải chọn một vị vua hiền minh mà phò tá. Tại sao vậy? Bởi vì trong thời buổi khó khăn như vậy, nếu phò tá một vị vua hồ đồ, tai họa chắc chắn sẽ ập đến.
Nếu nương nhờ kẻ ngu, khi tai hoạ xảy ra, bạn có cùng chia sẻ hoạn nạn hay không? Nếu cùng gánh vác thì gọi là kẻ ngốc (bất tri), bởi vì bạn đã biết rằng ông ấy hồ đồ và sẽ gặp họa trong tương lai, bạn vẫn tìm đến ông ấy, chẳng phải cuối cùng bạn sẽ tự chuốc lấy rắc rối sao? Điều này được gọi là bất tri. Nhưng nếu bạn không chia sẻ hoạn nạn thì sao? Ấy gọi là bất trung, bởi đã phò tá thì bạn phải trung thành, cùng gánh vác khó khăn. Vì vậy, nếu phò tá một vị vua hồ đồ, bạn chỉ có thể lựa chọn giữa bất tri hoặc bất trung.
Bách Lý hề nói, tôi thực sự bần cùng, đã có cơ hội như vậy thì tôi đâu có ngại gì. Ông đến nước Ngu để trở thành đại phu, lúc đó, ông còn khuyên vua Ngu đừng cho Tấn mượn đường nhưng vua không nghe. Khi Ngu bị tiêu diệt, Bách Lý Hề cũng bị bắt và bỏ tù. Nước Tấn đã bắt giữ ông.
Sau này vua Tấn nghe nói Bách Lý Hề rất có tài nên đã thương lượng mời ông ở lại Tấn làm quan, Bách Lý Hề trả lời, tôi đi theo vua nước Ngu là bất tri, nếu bây giờ lại làm quan nước Tấn thì chẳng phải là kẻ bất trung sao? Tôi đã là người bất tri, không thể tiếp tục làm kẻ bất trung, cho nên ông cự tuyệt lời mời của vua Tấn.
Lúc đó đúng lúc nước Tấn muốn kết quan hệ thông gia với nước Tần, Tấn Hiến Công định gả con gái của mình cho Tần Mục Công nên đã gửi Bách Lý Hề cho Tần làm của hồi môn. Bách Lý Hề nói, tôi đã gần 70 tuổi rồi, làm nô bộc ở đó thật sự chẳng hay. Thế là Bách Lý Hề bỏ chạy. Sau khi bỏ trốn, ông trở về quê hương nước Sở nhưng bị người Sở giữ lại và cho chăn bò.
Sau khi Tần Mục công cưới con gái của Tấn Hiến Công, ông nhìn vào danh sách của hồi môn và thấy trong đó thiếu một người. Tra ra là Bách Lý Hề, khi ấy ông đã nổi tiếng vì can gián vua Ngu không cho Tấn mượn đường. Tần Mục Công nói: “Cần phải tìm cho ra, người này tài giỏi như vậy, ta phải bỏ ra bao nhiêu tiền mới chuộc được?”
(Còn tiếp)
Chương Thiên Lượng – NTD
Thái Bình biên dịch từ: Chương trình lịch sử quy mô lớn của Đài truyền hình NTD (Tân Đường Nhân) “Tiếu đàm phong vân” do Giáo sư Chương Thiên Lượng chủ trì: Tập 12 – Bá đạo ngược Vương đạo (2)
NTD Việt Nam