Ba gia tộc phân chia nước Tấn. (Ảnh qua Apollo)
(Trích thuật) Ngô-Việt tranh bá là cuộc chiến quy mô lớn cuối cùng trong thời Xuân Thu, nó kết thúc bằng việc nước Việt tiêu diệt nước Ngô. Việt vương Câu Tiễn bị đánh bại trong cuộc chiến năm 494 TCN, ông phải đến Ngô để chăn ngựa cho Phù Sai trong ba năm và chịu đựng sự sỉ nhục tột cùng, sau khi trở về nước, ông phải chịu đựng gian khổ trong 15 năm, sau đó tiêu diệt nước Ngô vào năm 473 TCN. Trong khi Câu Tiễn đang nếm mật nằm gai thì Khổng Tử đã hoàn thành cuộc đời vĩ đại của mình, tuổi già bị bệnh qua đời ở nước Lỗ vào năm 479 TCN.
Được mệnh danh là “Vạn thế sư biểu” (Bậc thầy của muôn đời), Khổng Tử có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và chính trị Trung Quốc trong 2.500 năm sau đó. Tác phẩm quan trọng của ông là “Xuân Thu” được ông viết khi trở về nước Lỗ sau khi đi du thuyết các nước. Sách “Xuân Thu” dựa trên các sự kiện lịch sử nước Lỗ, dùng quan điểm của Khổng Tử để khen chê thiện ác, nhằm đặt ra những chuẩn mực đạo đức, trị quốc cho thế hệ mai sau.
Tư Mã Thiên ca ngợi “Xuân Thu” trong “Thái sử công tự tự”: “Sách Xuân Thu, trên làm sáng tỏ đạo Tam Vương, dưới phân biệt rõ kỷ cương của việc con người, làm rõ hiềm nghi, phân biệt đúng sai, xác định chỗ còn do dự, khen thiện chê ác, coi trọng người hiền, chê trách kẻ xấu xa, giúp quốc gia tránh suy vong, nối tiếp mạch kế thừa, sửa chữa thiếu sót, thực đúng là trước tác lớn của vương Đạo!”
Chính vì “Xuân Thu” của Khổng Tử ghi lại lịch sử từ năm thứ nhất Lỗ Ẩn (722 TCN) đến năm thứ mười bốn Lỗ Ai Công (481 TCN) nên các thế hệ sau coi nửa đầu thời Đông Chu từ năm 770 TCN đến năm 476 TCN, được gọi là thời Xuân Thu. Sau đó, Trung Quốc bước vào thời Chiến Quốc.
Sự kiện đánh dấu mốc lịch sử
Bắt đầu từ bài này, chúng ta bước vào những câu chuyện lịch sử thời Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc được đánh dấu bằng việc “Tam gia phân Tấn” (ba gia tộc phân chia nước Tấn). Tư Mã Quang cũng coi sự việc này là sự việc đầu tiên được ghi lại trong “Tư trị thông giám”. Trong mắt các học giả Nho giáo thời nhà Tống, “Lễ” và danh phận là rất quan trọng. Khi ba nhà chia cắt nước Tấn, các quan đại thần không chỉ đoạt được quốc sự của Tấn, phân chia lãnh thổ của Tấn, đuổi vua Tấn mà còn thành lập quốc gia riêng, và được thiên tử nhà Chu thừa nhận. Nói cách khác, Chu Thiên tử đã khuyến khích các quan đại thần tạo phản. Đây là khởi đầu cho sự hỗn loạn về danh phận.
Tại sao Tư Mã Quang lại coi trọng “Lễ” đến thế? Ông có một cách nói: một vị vua khó có thể đảm bảo được các phương diện như sức mạnh, trí tuệ, mưu lược và tài năng quản lý thiên hạ, làm lợi cho dân, đều là xuất sắc nhất trong một quốc gia. Sẽ luôn có những đại thần giỏi hơn nhà vua. Cho dù đại thần giỏi hơn vua, nhưng tại sao họ không thể làm vua, còn vị ấy làm vua? Điều này là do có ranh giới giữa nhà vua và các quan đại thần, và ranh giới này chính là danh phận.
Cho dù một vị vua nào đó có thể đảm bảo rằng bản thân mình là người thông minh nhất đất nước, thì ông ta cũng không có cách nào đảm bảo rằng con trai, cháu trai hoặc thậm chí cả thế hệ sau của mình sẽ là những người thông minh và có năng lực nhất đất nước. Trong trường hợp này, nếu mọi người chỉ dựa vào năng lực và sức mạnh mà nói thì quân vương sẽ gặp phải nguy hiểm rất lớn. Nếu thực lực của các đại thần trở nên mạnh mẽ, nhà vua sẽ bị thay thế hoặc thậm chí bị giết. Vì vậy, để tránh các quan đại thần và quân vương chém giết lẫn nhau thì phải có cái gì đó ước thúc họ, cái đó chính là “Lễ”.
Nếu vua có thể tuân theo lễ nghĩa của vua thì là vua tốt; đại thần có thể tuân thủ theo lễ của đại thần, thì mới không xảy ra chuyện giết vua. Chỉ bằng cách này, quyền lực chính trị của một quốc gia mới có thể được truyền lại một cách suôn sẻ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự chia cắt nhà Tấn của ba gia tộc là thời điểm danh phận rối loạn, với tiền lệ này, từ đó trở đi, người ta không nói đến đạo đức mà chỉ nói đến sức mạnh nên họ bước vào thời đại kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, thời đại này là thời Chiến Quốc.
Vậy “Tam gia phân Tấn” là chuyện gì? Ban đầu có sáu gia tộc lớn ở nước Tấn, nhưng sau đó gia tộc của Phạm đại phu và Trung Hành đại phu đều bị xóa sổ. Lúc này chỉ còn lại bốn gia tộc hùng mạnh là Trí gia, Hàn gia, Triệu gia và Ngụy gia.
Gia tộc Trí là gia tộc mạnh nhất trong bốn gia tộc, đại phu tên là Trí Bá Dao. Ông có năm đặc điểm, một là rất anh tuấn, có “Mỹ tu trường đại quá nhân” (râu đẹp dài hơn người khác); thứ hai là tài bắn cung và điều khiển xe rất giỏi, được gọi là “Thiện xạ ngự quá nhân” (giỏi bắn cung và đánh xe hơn người khác); ông có nhiều kỹ năng, được gọi là “Đa kỹ nghệ quá nhân” (nhiều kỹ năng hơn người); ông mạnh mẽ, dũng cảm và rất quyết đoán trong mọi việc; đồng thời, tài hùng biện rất tốt.
Nhưng Trí Bá Dao có một vấn đề lớn nhất, đó là tham lam và bất nhân. Khi đó hắn đang thèm muốn tước vị đại phu, từng có người khuyên cha của Trí Bá Dao, nói rằng người này là “Ngũ trường lăng nhân”, ý là có 5 ưu điểm như vậy, nhưng lại bất nhân. Nếu dùng nhiều sức mạnh để đạt được những mục đích bất nhân đó, chắc chắn cuối cùng sẽ mang tai họa đến cho gia tộc họ Trí. Kết quả là cha Trí Bá Dao không chịu nghe lời. và phong Trí Bá Dao làm người thừa kế. Cuối cùng, Trí Bá Dao trở thành quan đại phu của Trí gia.
Thực lực của Hàn gia, Triệu gia, Ngụy gia kém hơn Trí gia một chút.
Trí Bá Dao dẫn nước ngập thành Tấn Dương
Vào năm 455 TCN, Trí Bá Dao nghĩ ra cách làm suy yếu ba gia tộc còn lại. Ông nói rằng, hiện nay nước Việt rất hùng mạnh và là mối đe dọa đối với nước Tấn của chúng ta. Vì thế ông yêu cầu ba đại phu kia nộp sung công trăm dặm đất của mỗi gia đình. Bằng cách này, triều đình có nhiều đất đai và nhiều người hơn, thì sẽ có nhiều tiền thuế hơn để huấn luyện nhiều binh lính, nước Tấn sẽ an toàn hơn. Ông lấy cớ này để yêu cầu ba gia đình còn lại nhượng đất. Khi đó, họ Hàn và họ Ngụy sợ thanh thế của Trí Bá Dao nên đã vâng lời và nhượng lại một trăm dặm đất cho Trí Bá Dao.
Khi Trí Bá Dao yêu cầu họ Triệu giao đất Cao Lang (nay là huyện Ly Thạch, tỉnh Sơn Tây), Triệu Tương Tử, đại phu của Triệu gia, đã từ chối trao nó cho ông ta. Triệu Tương Tử nói: “Mỗi tấc đất của nhà họ Triệu chúng ta đều là kết quả của trăm trận chiến. Máu của tổ tiên chúng ta đã đổ trên mảnh đất đó, ta sẽ không cho đi một tấc đất nào hết. Nếu Hàn gia và Ngụy gia chịu cho thì đó là việc của họ, còn ta sẽ tuyệt đối không cho”.
Trí Bá Dao lúc đó rất tức giận nên hẹn với nhà Hàn và nhà Ngụy tấn công nhà Triệu. Ông còn nói rằng, nếu nhà họ Triệu bị tiêu diệt, đất đai của nhà họ Triệu sẽ bị chia làm ba phần, mỗi nhà sẽ được nhận một phần đất. Nhà Hàn và nhà Ngụy một mặt sợ thanh thế của Trí Bá Dao, mặt khác vì tham đất đai của nhà Triệu nên ba nhà liên minh lực lượng tấn công nhà Triệu.
Trước khi cha của Triệu Tương Tử qua đời, ông đã từng dặn dò rằng, nếu có chuyện gì xảy ra với Triệu gia, nơi an toàn nhất là Tấn Dương. Tấn Dương nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Vào thời điểm đó, thủ đô của nước Tấn nằm ở Khúc Ốc, nay là huyện Khúc Ốc, tỉnh Hà Nam. Khoảng cách tới đó là gần 300 km, một chặng đường dài.
Khi đó, Triệu Tương Tử nhìn thấy liên quân ba nhà đang tiến tới tấn công, Triệu Tương Tử chuẩn bị bỏ chạy.
Ông hỏi các cận thần của mình, đâu là nơi tốt nhất để chúng ta chạy? Nơi đầu tiên được giới thiệu cho ông có tên là Trường Tử, nay là huyện Trường Tử, tỉnh Sơn Tây, vì tường thành ở nơi đó mới được sửa chữa, vừa cao vừa dày.
Triệu Tương Tử nói không thể tới đó, người dân đã vất vả xây dựng tường thành, cũng đã rất mệt mỏi nếu lại yêu cầu bọn họ chiến đấu, thì thật không công bằng, nên không thể tới Trường Tử.
Những người khác nói rằng chúng ta nên đến Hàm Đan. Kho phủ của Hàm Đan đầy ắp.
Triệu Tương Tử nói: “Bởi vì trong kho có rất nhiều tiền, nên chúng ta không thể đi tới đó, bởi vì tiền ấy là thu vét của dân. Tốt nhất là nên nghe lời cha ta và đến Tấn Dương”. Vì vậy, họ đã đi 300 dặm từ Khúc Ốc đến Tấn Dương.
Thành Tấn Dương vô cùng kiên cố. Những người xây dựng thành này hồi đó tên là Doãn Đạc và Đổng An Vu. Trước khi bắt đầu xây dựng thành, họ từng hỏi cha của Triệu Tương Tử: Ông muốn chúng tôi xây dựng một căn cứ địa để làm chỗ rút lui sau này, hay ông muốn thiết kế chỗ kinh doanh làm cho ông giàu hơn?
Khi đó, cha của Triệu Tương Tử nói rằng phải xây một khu căn cứ. Vì vậy, hai người này đối với người dân Tấn Dương rất tốt, thuế má rất nhẹ, người dân cũng rất rất trung thành với gia đình họ. Thế là Triệu Tương Tử chạy tới Tấn Dương.
Ông cố thủ ở đây và ba lực lượng liên minh đã tấn công. Họ đã chiến đấu trong hai năm nhưng không đánh bại được . Từ năm 455 TCN, chiến tranh tiếp tục cho đến năm 453 TCN, thành trì bền vững kiên cố. Bản thân Trí Bá Dao cũng cảm thấy hơi thiếu kiên nhẫn.
Một ngày nọ Trí Bá Dao đang kiểm tra địa lý thì nhìn thấy một ngọn núi gần đó. Thác nước trên núi chảy theo ngàn dòng cuồn cuộn về phía đông. Ông hỏi người bản địa rằng đó là núi nào và sông nào. Người dân bản địa cho biết dòng nước này có tên là Tấn Thuỷ, một con sông rất lớn.
Trí Bá Dao đột nhiên nảy ra một ý tưởng. Ông muốn xây một con đập ở hạ lưu sông để chặn nước, sau đó dẫn nước vào làm ngập thành Tấn Dương. Thế là quân đội của ba gia tộc bắt đầu xây dựng theo kế hoạch này. Lúc đó là mùa xuân, mưa xuân rơi xuống, nước sông dâng cao nên không bao lâu đã đến tận chân thành Tấn Dương. Chỉ còn gần ‘Tam bản’ nữa là làm ngập tường thành. (‘Tam bản’ là một đơn vị đo lường cổ xưa, tương đương với gần một mét ngày nay).
Chúng ta biết rằng tường thành là bức tường được xây dựng trên nền đất bằng phẳng. Nhà dân không cao bằng nên toàn bộ nhà dân đều bị ngập. Không có chỗ nấu ăn nên người dân chỉ có thể nấu ăn bằng cách treo nồi trên mái nhà, gọi là “Huyền phủ nhi suy” (treo nồi thổi lửa), thêm lúc đó trời đang mưa. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, không một người dân nào của thành Tấn Dương đầu hàng.
(Còn tiếp)
Chương Thiên Lượng – NTD
Thái Bình biên dịch từ: Chương trình lịch sử quy mô lớn của Đài truyền hình NTD (Tân Đường Nhân) “Tiếu đàm phong vân” do Giáo sư Chương Thiên Lượng chủ trì: Tập 9 – Ba gia tộc phân chia nước Tấn (1)
NTD Việt Nam